-
Bút Ký: Thiền sư HÁM SƠN ĐÚC THANH (憨山德清 1546-1623)) đời nhà Minh - Trung Quốc
-
Việt dịch: Ni sư THÍCH NỮ NHƯ ĐỨC
PHẦN TỰA 🔗
TẬP 1:
PHẦN 1: 🔗
PHẦN 2: 🔗
TẬP 2:
PHẦN 1: 🔗
PHẦN 2: 🔗
PHẦN TỰA
Theo chú giải xưa, Lăng-già (Lanka) là tên núi, Trung Hoa dịch “Chẳng Thể Đến” (Bất Khả Vãng). Cũng gọi Lăng-già là tên thành, vì trên đỉnh núi có thành vua Dạ-xoa (Yaksha).
Núi này nằm ở bờ biển phía Nam. A-bat-đà-la (Avttara) dịch là Vô thượng. Bảo là nghĩa quý trọng. Dùng những nghĩa trên để đặt rằng kinh này là kinh quý báu vô thượng chẳng thể đạt đến.
Không hẳn như vậy. Thọ Công nói cảnh giới tự giác thánh trí không phải tà trí có thể đến được, nên nói chẳng thể đến; hạt châu ma-ni tuy sắc không có trân bảo thế gian nào sánh được nên nói Vô thượng, nghĩa là ở chỗ chẳng thể đến ấy có báu vô thượng này. Cũng chưa hết ý.
Luận Hoa Nghiêm nói: Thế Tôn thuyết pháp trong thành Lăng-già, đảnh núi Ma-la-đa, biển Nam. Núi ấy cao năm trăm do tuần, nhìn xuống biển lớn, không có đường lên.
Thành Lăng-già làm bằng các trân bảo, sáng chói như mặt trời mặt trăng, không cửa vào, người có thần thông mới có thể bay đến; biểu thị pháp môn tâm địa, vô tu vô chứng mới có thể đến.
Lời này chắc chắn như thế.
Tôi (Đức Thanh) khi ở Ngũ Đài từng gặp một Phạm tăng người nước Vu Điền 1, tóc dài hơn một trượng 2, không nói tuổi, chỉ nói vào Trung Hoa hơn 30 năm.
Sư tinh thông thiền quán, gồm rành rõ giáo thừa, giỏi tiếng địa phương. Tôi thỉnh Sư đồng ngụ tại chùa khoảng 3 năm 3.
Mỗi lúc đàm luận tôi đưa ra những Phạn ngữ trong Kinh đã dịch mời Sư xem thử, lời Sư đều hợp với chỗ dịch xưa.
Nhân đó, tôi đề cập đến kinh Lăng Già, Sư kinh ngạc nói: “Nơi đây cũng có kinh này ư? Đây là pháp vô khả thuyết vô khả đắc, là quốc bảo của vua nước tôi”.
Sư hỏi có bao nhiêu quyển.
Tôi đáp: “Truyền sang 4 quyển”.
Sư cười nói: “Đem sang chưa hết, kinh này 40 quyển, đây mới một phần mười”.
Sư nói gọn chỉ thú trong Kinh, mỗi lời đều phát minh cảnh giới ly tâm ý ý thức. Đây không thể thuật đủ.
❓ Tôi hỏi núi Lăng-già ở chỗ nào? Sư bảo núi này ở trong biển Nam nước Thiên Trúc. Lại hỏi vì sao gọi tên Lăng-già?
⚡️ Sư đáp:
Lăng-già là tên ngọc, hình tám cạnh tròn đều, chất rất cứng chắc không thể xuyên thủng, thường phát ánh sáng, các loại ngọc báu thế gian không thứ nào hơn, nên chữ A-bat-đa-la (Avatāra) dịch là Vô thượng, do núi toàn bằng ngọc báu này, nên núi lấy tên ngọc, gọi là “Núi báu Lăng-già A-bat-đa-la”. Trên đỉnh núi có thành, thành trời báu này không cửa vào, là chỗ ở của vua quỷ Dạ-xoa (Yaksha). Phật ở trong thành trên đỉnh núi mà nói kinh này, nên kinh lấy tên của núi.
❓ Tôi hỏi người có thể đến núi này chăng?
⚡️ Sư đáp:
“Người không đến được vì núi này trên lớn dưới nhỏ. Mỗi lúc đêm tới mây mù, hoặc sóng lớn dồn dập thì hình núi càng hiển lộ rõ, ánh sáng chấp phát huy, bằng như biển lặng trời trong thì chẳng thấy núi đâu. Tăng tham thiền của nước ấy thường kinh hành ở mé biển, nhìn về núi để nhập quán”.
Như thế, theo Hoa Nghiêm Luận và căn cứ lời vị Phạm tăng, thì núi lấy tên của ngọc báu, và kinh lấy tên núi, ý thật sâu kín.
⚡️ Kinh Duyên Khởi nói:
“Khó vào trong hội Vị tằng hữu, giảng thuyết trí Đà-la-ni duyên khởi, gọi là thức Lăng-già vương”.
Mượn nơi chốn để tiêu biểu pháp, lại càng thấy thâm huyền. Bên Giáo dùng các từ trí hải, tánh hải, giác hải, tâm hải cho đến bảo minh không hải; Kinh đây nói tạng thức hải.
Rồi lại lấy biển để dụ sanh tử, biển cũng dụ cho Niết-bàn; cũng dùng núi để thí dụ ngũ uẩn.
Huống chi, Dạ-xoa dịch là quỷ Khả Úy, là loài bay trên không ăn thịt chúng sanh, song đức Thế Tôn đặc biệt ở trong thành vua Dạ-xoa tại núi này biến này mà nói kinh này, hiển thị cảnh giới tự giác thánh trí. Chỗ kinh nói về năm pháp ba tự tánh tám thức hai vô ngã, ngay đó quán pháp, ý chỉ thật vi tế. Vì sao? Kinh nói: “Biển tạng thức thường trụ, gió cảnh giới lay động, sóng to vô biên rộng, không có lúc ngưng dứt”.
Đây tức là biển trí không tánh, nhân giác vọng mà thành phàm; biển tâm sâu lặng chuyển biến thành biển nghiệp sanh tử; tâm diệu bảo minh biến thành thân tâm huyễn vọng tâm thức nằm uẩn.
Vì vậy ngọc báu có tám cạnh, núi cao nằm trăm do tuần, là chỗ ở của Dạ-xoa sanh tử phiền não.
Rồi lúc đêm đến mây mù, hoặc nơi ba đảo cuộn cuộn mà núi càng hiển lộ hình tướng, đó là vọng tưởng khởi mà Niết-bàn hiện.
Vua quỷ Dạ-xoa thỉnh Phật thuyết pháp là phiền não khởi mà Phật đạo thành. Lại càng thấy rõ diệu tánh bảo minh này tuy ở trong núi ngũ uẩn, biển lớn sanh tử mà không bị phiền não lấn đoạt, không bị sóng sanh tử cuốn trôi, không bị gió cảnh giới lay động, vô minh hắc ám không thể che mờ, đêm dài đen kịt mà linh quang riêng hiển lộ.
Trở lại nói biển lặng trời trong núi không thật, đó là khi biển trí tròn lặng, van tướng sum la in bóng rõ ràng, thân tâm thế giới ngay đó tiêu dung, sanh tử Niết-bàn đồng thời bình đẳng.
Đến chỗ này ma Phật đều không, cả hai bất khả đắc. Ôi! Tin đây thật là pháp môn tự giác thánh trí cao vời tột đỉnh.
Kinh này còn được dịch nghĩa là “Chẳng Thể Đến”, chỉ có bậc thần thông mới có thể đến được.
Ý nói pháp môn này chẳng phải chỗ tâm hành, chỉ có bậc thượng thượng căn một phen vào liền vào, không cho dò dẫm tìm kiếm.
Nếu chẳng vào được cũng không cho suy nghĩ phan duyên, chỉ cần ở trong chỗ sóng gió phiền não tối tăm mà quán sát, không quán sát thì không biết trong biển sanh tử có vật này.
Kinh này vì hàng căn cơ thuần thục nói thẳng chúng tự nghiệp thức là Như Lai tạng, gọi là Đại thừa đốn giáo.
Cổ đức nói: “Lăng-già nói năm pháp ba tự tánh đều không, tám thức hai vô ngã cũng dẹp, cho nên đại sư Đạt-ma chỉ kinh này làm tâm ấn.
Mã Tổ nói: ‘Lăng-già dùng Phật ngữ tâm làm tông, vô môn làm pháp môn’.”
Thế nên bậc sư tướng trong tông môn dạy người, cần tham thẳng chỗ ly tâm ý ý thức, học ra khỏi đường phàm thánh.
Thế mà người giảng thuyết chiếu danh lập pháp, chẳng biết “không khiển” 4 làm sao lợi ích kẻ hậu học.
Đoán mò tâm ấn Tổ sư cũng đến như thế thôi. Thật đáng buồn!
NGUỒN
…
GHI CHÚ
Footnotes
-
📝 Vu Điền (于闐): Một nước xưa thuộc miền Tây vực, nằm trên tuyến đường phía Nam của con đường tơ lụa từ Ấn sang Trung Hoa. Ngày nay được gọi là Hòa Điền, sản xuất rất nhiều ngọc quý. Từ Vu Điền vào Trung Hoa, qua cửa ải Ngọc Môn, vì tất cả ngọc quý đưa vào kinh đô đều phải đi qua cửa ải này. Thời gian chuyến chở đường bộ khoảng ba năm mới đến Bắc Kinh. Tên gọi xưa của Vu Điền là Cú-tát-đán (Khotan). ↩
-
📝 Một trượng Tàu khoảng 3m. ↩
-
📝 Thời gian ngài Hám Sơn ở Ngũ Đài Sơn từ năm 1575 đến năm 1582. Nơi ở của Ngài là vùng Long Môn – Bắc Đài. Tại đó có một ngọn núi tên Hám Sơn, Ngài lấy tên núi làm tên hiệu của mình. ↩
-
📝 Không khiển: Dẹp cái chấp không. ↩