👤 GIỚI THIỆU
Thiền sư Hám Sơn Đức Thanh (1546 - 1623) tên tục là Thái Đức Thanh, hiệu Trừng Ấn. Sư sinh ngày 5 tháng 11 năm 1546 tại Toàn Tiêu, Kim Lăng (nay là tỉnh An Huy).
Vào sinh nhật đầu tiên (thôi nôi) sư đột nhiên bị bệnh trầm kha không chữa nổi, mẹ sư đã phát nguyện với bồ tát Quán Thế Âm tại chùa là nếu sư thoát chết thì sẽ cho sư được xuất gia. Quả nhiên bệnh thuyên giảm. Thuở thơ ấu sư rất thường tư lự về nguyên nhân của vòng sinh tử. Trong suốt cuộc đời mình sư hay bị ốm yếu và bị các mụt nhọt lớn hành hạ.
Năm 11 tuổi, sư thuyết phục được người cha vốn không muốn cho con mình đi tu cho phép làm một sa di tại chùa Báo Ân nhưng sư vẫn chưa được chính thức xuất gia.
Tại đây sư theo pháp sư Tây Lâm Vĩnh Ninh học tập kinh điển Phật giáo và còn học thông cả Nho giáo, Đạo giáo.
Năm 19 tuổi, sư mới được chính thức xuất gia. Sau sư đến tham học với Thiền sư Vân Cốc Pháp Hội ở chùa Thê Hà. Nhân đọc được quảng lục của Thiền sư Trung Phong Minh Bản, sư quyết chí tu theo Thiền tông. Sau đó sư trở lại chùa Báo Ân thọ giới cụ túc với pháp sư Vô Cực Minh Tín. Tại đây, sư nghe pháp sư Vô Cực giảng luận Hoa Nghiêm Huyền Đàm và vì cảm mộ đức hạnh của ngài Thanh Lương Trừng Quán nên lấy hiệu là Trừng Quán.
Năm 20 tuổi, sư quay lại tham yết ngài Vân Cốc và được trao công án “Niệm Phật là ai?”. Từ đó sư chuyên tâm tham cứu thoại đầu.
Năm 21 tuổi, chùa Báo Ân bị sét đánh khiến cháy rụi. Sư đã nỗ lực thuyết pháp, dẫn chúng và hóa duyên tịnh tài trong vài năm để dựng lại chùa Báo Ân.
Bắt đầu từ năm 1571, sư vân du nhiều nơi, đến tham viếng các trường giảng dạy Phật pháp ở kinh đô và nghiên cứu nhiều chủ đề Phật giáo khác nhau như Thiền tông, Tịnh Độ tông, Pháp tướng tông. Năm 1573, sư lên núi Ngũ Đài tĩnh tu, thấy cảnh ngọn núi Hám Sơn kỳ vĩ, thanh thoát nên lấy hiệu là Hám Sơn. Sau sư quay lại Bắc Kinh và đọc các tác phẩm của Pháp sư Tăng Triệu, tại đây sư đã đạt được sự tỉnh thức sâu sắc về tính bất nhị của vạn vật.
Về sau sư đã viết Triệu Luận Chú để chú thích quyển Triệu Luận dựa trên kinh nghiệm tu hành của mình.
Năm 1575, sư đến núi Ngũ Đài và ẩn tu tại một ngôi miếu hoang. Nhân một hôm đi kinh hành rồi nhập đại định. Sư không còn thấy thân tâm mình ở đâu nữa. Việc đạt được kiến tính khiến sư viết lên bài kệ:
Khoảnh khắc nhất niệm, tâm cuồng ngưng
Căn trần nội ngoại, đều thấu suốt
Thân bay độc phá, thái hư không
Vạn tượng sum la, từ đây diệt
Vì Thiền sư Vân Cốc đã thị tịch không có người ấn chứng nên sư đọc kinh Lăng Nghiêm trong vòng 8 tháng để tự ấn chứng.
Năm 1577, sư tự trích máu chép kinh Hoa Nghiêm. Thái hậu Hiếu Định sau khi biết chuyện đã cúng dường giấy vàng để sư chép kinh, đây cũng là sự khởi đầu cho mối quan hệ thân thiết nhưng phức tạp giữa sư và thái hậu. Việc sao chép kinh mất hai năm và chính thức được công bố vào năm 1581. Theo truyền thuyết, trong thời gian chép kinh, sư đã có nhiều giấc mơ mà trong đó sư gặp được Tổ sư Hoa Nghiêm tông - Pháp sư Thanh Lương Trừng Quán, Bồ tát Di-lặc, Bồ tát Văn-thù-sư-lợi.
Đến năm 1595, nhân một vu cáo vì tranh chấp đất đai chùa Hải Ấn, sư bị giam cầm tra tấn ép cung dã man bắt sư nhận tội lấy 3000 lạng vàng công quỹ nhưng số tiền đó đã được chứng minh qua sổ sách triều đinh là được dùng trong việc cứu đói ở Sơn Đông (1593). Sau cùng, sư chỉ bị xử tội xây chùa trái phép, sư bị buộc hoàn tục lưu đày đến Lôi Châu (thuộc biên giới tỉnh Quảng Châu) vào tháng 11 năm 1596.
Trong lúc bị lưu đày, mặc dù đã hoàn tục nhưng sư vẫn tiếp tục công việc giảng pháp, chú giải và in ấn kinh sách Phật giáo. Cũng tại Quảng Châu, sư đã tiến hành giải hòa cho một xung đột có thể gây chết nhiều sinh linh giữa người Quảng Đông và các lái buôn Phúc Kiến. Nhờ việc này mà sư được tổng đốc Quảng Châu cho phép về và trùng tu lại Tổ đình Thiền tông ở Tào Khê (nơi Lục Tổ Huệ Năng đã từng hoằng pháp).
Năm 1606, nhân việc Thái tử nhà Minh sinh con trai, sư được tạm thời xá tội. Trong lúc này, sư vẫn phải ở lại tiếp tục hoằng pháp tại Tào khê và Quảng Đông cho đến khi lệnh chính thức ân xá ban (1610). Sau đó, sư đến Khuôn Sơn. Năm 1614, sư cạo tóc và sử dụng lại cà sa.
Năm 1622, sư về chùa Hoa Nam Tào Khê và thị tịch tại đó nhằm ngày 5 tháng 11.
📜 NGỮ LỤC
- Khi chúng ta thuyết pháp cho những người chỉ thấy thế giới huyễn ảo của bản ngã, thì chúng ta thuyết pháp cũng vô ích. Chẳng khác nào thuyết pháp cho người chết.
Thật ngu ngốc biết bao khi quay lưng lại với những gì chân thật, chân lý và trường tồn mà lại chạy theo những hình hài phù du của thế giới vật chất, những hình hài chỉ là hình ảnh phản chiếu trong tấm gương của bản ngã. Không màng nhìn thấu bề mặt, những kẻ si mê chỉ biết chộp lấy hình ảnh. Họ nghĩ rằng năng lượng luôn tuôn chảy của thế giới vật chất có thể được biến đổi thành những hình hài vĩnh cửu, rằng họ có thể đặt tên và trân trọng những hình hài này, rồi sau đó, như những vị chúa tể vĩ đại, thống trị chúng.
Vật chất cũng giống như những thứ chết, và bản ngã không thể làm chúng sống lại. Cũng như đấng tối cao gắn chặt với vương quốc của mình bằng chính bản sắc của mình, bản ngã, khi gắn chặt với vật chất, sẽ ngự trị cõi chết. Pháp là của người sống. Cái vĩnh hằng không thể ngự trị trong cái phù du. Niềm vui chân chính và lâu dài không thể tìm thấy trong thế giới ảo tưởng biến đổi của bản ngã. Không ai có thể uống nước của ảo ảnh.
-
Cũng có những người tự nhận mình đã giác ngộ, khăng khăng rằng họ hiểu bản chất phi vật chất của thực tại. Khoe khoang rằng căn bệnh vật chất không thể lây nhiễm, họ cố gắng chứng minh mình miễn nhiễm bằng cách cẩn thận tránh xa mọi thú vui trần tục. Nhưng chính họ cũng đang chìm trong bóng tối.
-
Những ai dốc lòng vạch trần sự giả dối của mọi đối tượng giác quan mà họ gặp phải cũng không đúng. Đúng là nhận thức về vật chất khơi dậy những ham muốn hoang dại trong tâm. Đúng là một khi đã hiểu được bản chất vô giá trị của những đối tượng hiển nhiên đó, những ham muốn hoang dại sẽ trở thành những suy nghĩ rụt rè. Nhưng chúng ta không nên giới hạn việc thực hành tâm linh của mình vào việc xua tan ảo tưởng. Pháp không chỉ đơn thuần là hiểu được bản chất của thực tại.
-
Cách tốt nhất để cắt đứt sự bám víu vào vật chất là gì?
Trước hết, chúng ta cần một thanh kiếm sắc bén, một thanh kiếm của sự phân biệt, một thanh kiếm có thể cắt xuyên qua vẻ bề ngoài để phơi bày bản chất thật. Chúng ta bắt đầu bằng cách chú ý đến việc chúng ta nhanh chóng bất mãn với vật chất như thế nào, và những thú vui giác quan cũng nhanh chóng biến thành sự bất mãn ra sao. Với sự nhận thức bền bỉ, chúng ta mài giũa và rèn giũa thanh kiếm này. Chẳng bao lâu, chúng ta nhận ra rằng mình hiếm khi phải dùng đến nó. Chúng ta đã cắt đứt mọi ham muốn cũ và những ham muốn mới không dám quấy rầy chúng ta.
-
Những người chân tu hành đạo sống trong thế gian dùng hoạt động thường nhật như một công cụ mài giũa. Bề ngoài, họ có vẻ rất bận rộn, như đá lửa đập vào thép, tạo ra tia lửa khắp nơi. Nhưng bên trong, họ âm thầm phát triển. Bởi vì mặc dù họ có thể làm việc rất chăm chỉ, nhưng họ làm việc vì công việc chứ không phải vì lợi nhuận mà nó mang lại. Không bám víu vào kết quả lao động, họ vượt qua sự cuồng nhiệt để đạt đến sự tĩnh lặng cốt lõi của Đạo. Chẳng phải một dòng suối dữ dội và cuồn cuộn cũng lấp lánh như đá lửa đập vào – trong khi nó mài nhẵn mọi hòn đá trên đường đi của nó sao?
-
Trong thế giới ảo tưởng của bản ngã, vạn vật luôn biến đổi. Nhưng sự thay đổi liên tục chính là sự hỗn loạn triền miên. Khi bản ngã tự coi mình là trung tâm của quá nhiều hoạt động xoay vần, nó không thể trải nghiệm sự hài hòa của vũ trụ.
Ví dụ, cái mà bản ngã coi là một cơn bão tàn khốc, xét theo vũ trụ, lại là một sự kiện hoàn toàn tự nhiên, một mắt xích trong chuỗi nhân quả bất tận. Vũ trụ, không có bản ngã, tiếp tục tồn tại mà không đưa ra phán xét về bão tố hay gió biển.
Khi chúng ta không còn bản ngã, chúng ta cũng có thể bình thản chấp nhận những biến cố của cuộc đời. Khi chúng ta ngừng phân biệt thành kiến - nhẹ nhàng hay khắc nghiệt, đẹp đẽ hay xấu xí, tốt đẹp hay xấu xa - một sự tĩnh lặng thanh bình sẽ thấm nhuần tâm trí chúng ta. Nếu không có bản ngã, sẽ không có sự xao động.
- Tâm trí và cơ thể chúng ta vốn dĩ trong sạch; nhưng chúng ta lại làm vấy bẩn chúng bằng những suy nghĩ và hành động tội lỗi. Để khôi phục lại sự trong sạch ban đầu, chúng ta chỉ cần gột rửa những bụi bẩn tích tụ. Nhưng chúng ta phải tiến hành quá trình thanh tẩy như thế nào? Chúng ta có đặt ra một rào cản giữa mình và những dịp cho những thói quen xấu nảy sinh không? Chúng ta có tránh xa những nơi cám dỗ không? Không. Chúng ta không thể tuyên bố chiến thắng bằng cách né tránh cuộc chiến. Kẻ thù không phải là môi trường xung quanh, mà là chính chúng ta. Chúng ta phải đối diện với chính mình và cố gắng hiểu những điểm yếu của con người. Chúng ta phải nhìn nhận một cách trung thực về bản thân, về các mối quan hệ và tài sản của mình, và tự hỏi tất cả những sự nuông chiều bản thân đã mang lại cho chúng ta điều gì. Liệu chúng có mang lại hạnh phúc cho chúng ta không? Chắc chắn là không.
Nếu thành thật một cách tàn nhẫn, chúng ta sẽ phải thừa nhận rằng chính cái tôi ích kỷ ngu ngốc của mình đã làm vấy bẩn chúng ta. Sự thừa nhận này thật đau đớn. Chà, nếu muốn làm tan băng, chúng ta phải dùng nhiệt. Lửa càng nóng, băng càng tan nhanh. Trí tuệ cũng vậy. Càng soi xét kỹ lưỡng, chúng ta càng nhanh đạt được trí tuệ. Khi trí tuệ phát triển, chúng ta sẽ làm lu mờ cái tôi ích kỷ cũ kỹ của mình. Cuộc chiến khi đó sẽ kết thúc.
- Có những lúc chúng ta hành động với niềm tin vững chắc vào Pháp mặc dù chúng ta không hiểu rõ hoàn cảnh mình đang gặp phải. Có những lúc chúng ta hiểu rõ hoàn cảnh của mình nhưng lại sợ phải hoàn toàn trung thành.
Trong một trường hợp, chúng ta có trái tim; và trong trường hợp khác, chúng ta có lý trí. Chúng ta phải kết hợp hai điều này lại với nhau! Sự hiểu biết VÀ đức tin!
-
Chỉ cần một điểm tựa nhỏ, đòn bẩy có thể nâng được hàng tấn vật nặng. Chỉ cần một ý nghĩ tham lam, bao năm tháng chính trực có thể bị hủy hoại. Một ý nghĩ tham lam là mầm mống của sợ hãi và hoang mang. Nó sẽ sinh sôi nảy nở không ngừng. Lợi ích vật chất mà một hành động tham lam mang lại quả thực chỉ là một lợi ích nhỏ. Hành động mà không tham lam và mất đi một chút lợi ích vật chất cũng chỉ là một mất mát nhỏ. Nhưng đánh mất chính trực! Đó là một mất mát to lớn! Người giác ngộ phải kính sợ điểm tựa ấy.
-
Con người phấn đấu vì điều gì? Tiền bạc, danh vọng, hay những mối quan hệ thành công, hay Pháp. Một người có thể trở nên rất giàu có nhưng bị gia đình ghét bỏ. Một người khác có thể được mọi người yêu mến nhưng lại chẳng có một xu dính túi. Một người thứ ba có thể được đồng bào tung hô là anh hùng nhưng rồi lại thấy mình không có tiền bạc hay gia đình yêu thương. Thông thường, người ta dồn quá nhiều nỗ lực vào việc đạt được một mục tiêu, đến nỗi những mục tiêu khác không thể đạt được. Nhưng còn người phấn đấu để đạt được Pháp thì sao? Nếu thành công, anh ta đã đạt được mục tiêu đó nhiều hơn cả ba mục tiêu kia cộng lại. Người có Pháp thì không thiếu thốn gì cả.
-
Thả một con cá lên bờ, nó sẽ nhớ biển cả cho đến chết. Nhốt một con chim vào lồng, nó sẽ không quên bầu trời. Mỗi con đều nhớ quê hương đích thực của mình, nơi mà bản chất đã định sẵn nó phải thuộc về.
Con người sinh ra trong trạng thái ngây thơ. Bản chất nguyên thủy của họ là tình yêu, sự duyên dáng và sự thuần khiết. Vậy mà họ lại di cư một cách thản nhiên, không mảy may nghĩ đến quê hương cũ. Chẳng phải điều này còn đáng buồn hơn cả loài cá và loài chim sao?
-
Người theo đuổi tiền bạc luôn vội vã, luôn bận rộn với những việc cấp bách. Người theo đuổi Pháp lại thong thả, thong thả. “Nhàm chán” ư? Có lẽ vậy. Có lẽ thật buồn tẻ khi dừng lại để ngửi một bông hoa hay lắng nghe một chú chim. Có lẽ một tia sáng vàng thực sự còn rực rỡ hơn cả việc nhìn thấy Bản lai diện mục của chính mình. Có lẽ điều chúng ta cần là một định nghĩa rõ ràng hơn về “kho báu”.
-
Thời tiết trong lòng phải luôn trong lành, luôn nắng ấm và bình yên. Thời tiết chỉ có thể trở nên tồi tệ khi những đám mây dục vọng và ràng buộc hình thành. Chúng luôn mang đến những cơn bão lo lắng và hoang mang.
-
Một đốm nhỏ trong mắt làm mờ thị lực tốt, chúng ta nhìn thấy hình ảnh kép hoặc ba. Một suy nghĩ đen tối làm rối trí lý trí. Nhiều sai lầm trong phán đoán có thể phát sinh từ nó. Hãy loại bỏ đốm nhỏ đó và nhìn rõ! Loại bỏ suy nghĩ đen tối đó và suy nghĩ rõ ràng!
-
Những thành tựu vĩ đại được tạo nên từ những chi tiết nhỏ nhặt. Những người đạt được Toàn thể đã chú ý tỉ mỉ đến từng chi tiết nhỏ. Những người thất bại đã bỏ qua hoặc xem nhẹ những gì họ cho là tầm thường. Người giác ngộ không bỏ sót điều gì.
-
Tại sao một số đồ vật lại được trân trọng đến vậy? Một viên ngọc hầu như vô dụng, và một vỏ kiếm mạ vàng cũng chẳng hơn gì một vỏ kiếm trơn.
Con người cho rằng vàng quý giá vì nó hiếm, bền và sáng bóng. Rồi anh ta nghĩ rằng nếu sở hữu vàng, bản thân anh ta sẽ trở nên hiếm có hoặc độc nhất, giá trị cá nhân của anh ta sẽ trường tồn, và anh ta cũng sẽ được coi là một người khá thông minh. Anh ta có thể bị ám ảnh bởi những quan niệm ngớ ngẩn này đến mức khi cố gắng kiếm vàng, anh ta sẽ hủy hoại chính cuộc sống mà anh ta đang cố gắng tô điểm.
Trong bóng tối của ảo tưởng, những kẻ chưa giác ngộ tin rằng họ có thể tự tôn vinh bản thân bằng cách phản ánh những phẩm chất mà họ gán cho tài sản của mình. Những người sống cuộc sống giác ngộ dễ dàng nhận ra rằng phẩm chất của một vật thể không được truyền sang người sở hữu nó. Một đống kho báu chất đống trên đường đi của họ sẽ không cản trở tầm nhìn của họ. Họ có thể nhìn thấu chúng. Vàng trong túi không phải là vàng trong tính cách.
- Hãy nhìn những người nuôi hổ làm thú cưng. Ngay cả khi họ đang cười đùa với chúng, trong thâm tâm họ vẫn lo sợ thú cưng sẽ bất ngờ tấn công mình. Họ không bao giờ quên được sự nguy hiểm của hổ.
Nhưng còn những người ham muốn của cải, đắm chìm trong hết thứ này đến thứ khác thì sao? Họ hoàn toàn không ý thức được bất kỳ mối nguy hiểm nào.
Nhưng con hổ chỉ có thể ăn thịt người. Lòng tham có thể nuốt chửng linh hồn con người.
- Sẽ dễ dàng hơn để làm điều đúng đắn khi chúng ta biết điều đúng đắn cần làm là gì. Chúng ta không thể dựa vào bản năng để tìm ra Con Đường. Chúng ta cần sự hướng dẫn.
Nhưng một khi đã được chỉ đường và bắt đầu leo lên, ta nhận ra rằng với mỗi bước đi, ta lại trưởng thành hơn về trí tuệ và nghị lực. Nhìn xuống, ta thấy biết bao nhiêu ham muốn cũ đã chết hẳn bên đường. Chúng trông yếu ớt nằm đó đến nỗi ta tự hỏi tại sao mình từng nghĩ mình thiếu can đảm để chống lại chúng.
Ngọn núi Trí tuệ khác với những ngọn núi khác. Càng leo cao, chúng ta càng trở nên mạnh mẽ hơn.
- Con người luôn tìm kiếm con đường dễ dàng. Con đường khó khăn – con đường được học từ những trải nghiệm khó khăn và những nhận thức đau đớn – không hấp dẫn họ. Họ muốn một con đường tắt. Những người tìm kiếm Pháp chân chính sợ những con đường tắt. Họ hiểu rõ hơn ai hết. Họ biết rằng nếu không nỗ lực, sẽ không có cảm giác thành tựu. Chính cảm giác đó đã thúc đẩy họ tiếp tục.
Những người không trân trọng những khó khăn khi leo núi thường thiếu hiểu biết về nơi mình đã đến, không nhận thức được mình là ai, và không quyết tâm tiếp tục leo núi. Đó là lý do tại sao họ không bao giờ đạt được Pháp.
- Hai mục tiêu phổ biến nhất của con người trên đời là gì? Giàu sang và danh vọng. Để đạt được những mục tiêu này, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sức khỏe thể chất, tinh thần và tâm hồn. Đây quả là một sự đánh đổi không hề dễ dàng, phải không? Của cải và danh vọng trần tục chóng tàn đến nỗi chúng ta tự hỏi điều gì sẽ tồn tại lâu hơn, tiền bạc, danh vọng hay con người.
Nhưng hãy nghĩ đến mục đích giác ngộ, đạt được sự giàu có của Pháp. Những ai đạt được mục đích này sẽ có thân thể cường tráng, tâm trí minh mẫn, và tinh thần thanh thản… mãi mãi trường tồn.
- Có những người tuy chẳng làm được gì, nhưng lại âm mưu đạt được vinh dự lớn lao hay chức vụ cao. Những người đạt được địa vị cao mà không cần nỗ lực cũng giống như cây không rễ, sống trong sợ hãi rằng chỉ cần một cơn gió nhẹ cũng có thể quật ngã họ.
Vinh dự không xứng đáng là lời mở đầu cho sự ô nhục.
-
Người giàu được ngưỡng mộ vì họ tiết kiệm được tiền. Nhưng tiền tiết kiệm có thể được tiêu. Sự ngưỡng mộ đi liền với tiền bạc. Một vị vua được thần dân trung thành vì họ coi ông là người cao quý. Nếu họ cho rằng ông hành động không đúng, ông có thể mất nhiều hơn cả ngai vàng. Những người giàu có trong Pháp và cao quý trong Đạo Phật luôn giữ được - của cải và lòng trung thành của thần dân.
-
Bằng cách che giấu tội lỗi của mình một cách thành công, một người không thể tự cho mình là đáng kính. Anh ta biết mình đã làm sai. Bằng cách liên tục khoe khoang, một người không thể tự nhận mình nổi tiếng mặc dù anh ta nghe thấy tên mình được nhắc đến ở khắp mọi nơi. Bằng cách tác động đến phong thái của những người thánh thiện, các nhà sư có thể được tôn kính, nhưng một phong thái ngoan đạo không bao giờ khiến bất kỳ ai trở thành thánh nhân. Danh dự thực sự, sự công nhận thực sự và lòng mộ đạo thực sự là gì? Chúng là những phẩm chất bên trong, chứ không phải hành động hay vẻ bề ngoài hời hợt. Khi lương tâm của một người không bị vấy bẩn, anh ta là người đáng kính. Khi danh tiếng về sự chính trực của anh ta đi trước anh ta, anh ta là người nổi tiếng. Khi sự khiêm nhường và lòng tôn kính đối với Pháp tuôn chảy tự nhiên từ tính cách của anh ta, anh ta được kính trọng.
-
Nếu con người không thể trốn tránh những yêu cầu của cha và hoàng đế, thì họ có thể làm gì khi Thần Chết ra lệnh? Họ phản đối kịch liệt và gào thét lên trời, nhưng họ phải tuân lệnh. Kẻ nào gào thét to nhất là kẻ nghĩ rằng mình vừa đạt đến đỉnh cao của thành công trần tục.
Người giác ngộ hiểu rõ sự sống và cái chết. Họ luôn sống tốt và không bao giờ than vãn.
-
Người ta nghĩ rằng nếu có kiến thức thế gian thì biết hết mọi thứ. Nhưng điều đó không đúng. Ngay cả khi đã nắm vững các môn học, vẫn luôn có chỗ cho sai sót. Và nếu những cung thủ giỏi nhất đôi khi vẫn bắn trượt, vậy còn những cung thủ tầm thường thì sao? Khi chúng ta hiểu được Pháp, chúng ta đã có tất cả thông tin cần thiết. Bất kể những kiến thức khác mà chúng ta có thêm, kho tàng kiến thức của chúng ta, dù rất sâu rộng, vẫn luôn đầy ắp.
-
Vạn vật trong vũ trụ đều biến đổi. Chỉ có một ngoại lệ: cái chết luôn theo sau sự sống. Chẳng phải lạ sao khi con người không nhận ra điều này, khi họ sống như thể sẽ sống mãi mãi, rằng cái chết chẳng có gì đáng lo ngại? Dĩ nhiên, nếu họ thực sự muốn sống lâu như họ mong đợi, tốt hơn hết là họ nên theo đuổi Pháp. Bản thân sự sống, cái chết và sự thay đổi đều được siêu việt trong Pháp thân.
-
Tôi lượm lặt những gì người gặt lúa đã bỏ sót hoặc loại bỏ. Vậy tại sao giỏ của họ lại trống rỗng trong khi giỏ của tôi lại đầy ắp thức ăn ngon? Họ chỉ không nhận ra Phật tính của mình khi nhìn thấy nó.
Mọi thứ trong cuộc sống đều phụ thuộc vào sự lựa chọn của chúng ta.
- Trong xã hội lịch sự, ai cũng để ý nếu tay một người bẩn. Họ sẽ nhìn anh ta với ánh mắt khinh bỉ. Anh ta sẽ khổ sở cho đến khi được rửa tay.
Nhưng thật buồn cười khi một người đàn ông có thể mang trong mình tính cách bị vấy bẩn bởi lòng tham và thù hận mà chẳng ai thèm để ý đến? Anh ta vẫn ung dung tự tại. Rõ ràng, một tính cách bẩn thỉu thì không đáng được chú ý như một bàn tay bẩn thỉu.
Thật dễ dàng để khôi phục lại sự trong sạch cho đôi tay bẩn thỉu. Chỉ cần rửa sạch chúng. Nhưng còn tính cách sa đọa thì sao? Đó lại là một vấn đề khác…
-
Nếu một người mang quá nhiều gánh nặng thế gian, thân thể sẽ sớm kiệt quệ. Nếu anh ta lo lắng quá nhiều về những vấn đề thế gian, tâm trí anh ta sẽ sớm suy sụp. Bận rộn với vật chất là một lối sống nguy hiểm, một sự lãng phí năng lượng ngu ngốc. Một người đàn ông nên đơn giản hóa nhu cầu của mình và sử dụng sức mạnh của mình để đạt được những mục tiêu tâm linh. Chưa bao giờ có ai hủy hoại tâm trí hay thể xác của mình bằng cách tự kiềm chế.
-
Cuối cùng, sự khác biệt giữa khổ và lạc là gì? Khổ là chướng ngại, chướng là thử thách, và thử thách là cách vận dụng sức mạnh Pháp của một người. Còn gì thú vị hơn thế?
Con người ta luôn sợ gian khổ. Họ sống cả đời chỉ để né tránh khó khăn, đón nhận những điều dễ dàng. Còn tôi thì ngược lại. Tôi không hề phân biệt khó khăn hay vui vẻ. Dù con đường phía trước khó khăn hay dễ dàng, tôi cũng không ngần ngại bước tiếp.
-
Người ta phẫn nộ lên án bọn trộm cắp vì chúng ăn cắp của cải vật chất. Tôi lo lắng về loại trộm cắp đánh cắp linh hồn. Người ta hành động để bảo vệ tài sản của mình. Họ xây tường và lắp đặt hệ thống an ninh. Họ treo cổ bất kỳ tên trộm nào họ bắt được. Vậy họ làm gì để bảo vệ tâm trí khỏi sự tha hóa và mất mát?
-
Người có đức hạnh thì hiền lành, khiêm nhường và không ham muốn vật chất. Người có đức hạnh thì khắc nghiệt, kiêu ngạo và bị lòng tham làm nô lệ. Sự hiền lành biểu hiện sức mạnh lớn hơn sự khắc nghiệt. Sự khiêm nhường đáng ngưỡng mộ hơn sự xấc xược. Tự do luôn được ưa chuộng hơn nô lệ.
Điều đó là hiển nhiên. Một người đàn ông có phẩm chất tốt sẽ có cuộc sống tốt đẹp hơn.
- Có lợi ích vật chất và lợi ích tinh thần. Để đạt được những mục đích vật chất mà mình mong muốn, tâm trí tìm kiếm thế giới bên ngoài. Khi tìm kiếm lợi ích tinh thần, nó hướng sự chú ý vào trái tim.
Người nào không để tâm mình dính mắc vào thế giới vật chất, thì sẽ bị ràng buộc vào thế giới vật chất. Người tìm kiếm Pháp hướng nội và chú tâm vào tâm mình. Đó là nơi họ muốn hình thành sự ràng buộc.
- Bạn không thể thoải mái khi bị dằm đâm vào da. Tệ hơn nữa, nếu không lấy chúng ra, da sẽ bị nhiễm trùng. Da bị nhiễm trùng sẽ bị hoại tử.
Trái tim cũng vậy. Bạn không thể thoải mái nếu những mảnh vụn của lòng tham mắc kẹt trong đó. Và nếu bạn không lấy chúng ra, trái tim bạn sẽ bị nhiễm trùng. Bạn sẽ làm gì nếu tinh thần bạn chết?
- Một thảm họa thiên nhiên, cái gọi là Thiên tai, không phân biệt nạn nhân. Nó gây thiệt hại cho tất cả mọi người - giàu và nghèo, tốt và xấu.
Bất cứ khi nào bạn có quyền lực đối với người khác, hãy luôn nghĩ đến thiên tai. Hãy công bằng như một vị thần.
-
Cách tốt nhất để chuyển hóa người khác theo Đạo Pháp là chính mình phải tự chuyển hóa trước. Hãy làm gương cho họ noi theo. Một hành động tự nhiên xuất phát từ đức hạnh còn thuyết phục hơn cả lời nói hoa mỹ nhất.
-
Từ nghèo khó đến giàu sang dễ hơn từ giàu sang đến nghèo khó. Ai cũng biết điều đó. Nghèo khó như bị sóng đánh dạt dào. Nếu tỉnh táo, người ta có thể tìm được lối thoát. Còn giàu sang thì như trôi nhẹ nhàng theo dòng nước. Người ta sẽ ngủ thiếp đi và chỉ tỉnh dậy khi đã ra đến biển. Hãy chào đón gian khổ. Hãy coi mưa như sương sớm. Hãy sợ những ngày nắng. Leo núi dưới ánh mặt trời chói chang thật khó khăn.
-
Phật tánh của chúng ta luôn trong sáng. Nếu chúng ta không thể thấy được vì mắt bị che phủ bởi bụi trần cảm xúc. Chúng ta không thể dùng bụi trần lau sạch bụi trần, và không thể dùng cảm xúc để làm lắng dịu cảm xúc. Vậy làm thế nào để gỡ bỏ bức màn che phủ đó? Chúng ta sử dụng trí tuệ Pháp. Giác ngộ vén bức màn che phủ và soi sáng Phật tánh của chúng ta.
-
Phẩm chất tuyệt vời của trí tuệ là nó luôn đáp ứng chính xác những gì cần thiết. Giống như một thanh kiếm sắc bén, được nhắm đúng mục tiêu – nó luôn trúng đích. Khi chúng ta trưởng thành trong trí tuệ, chúng ta sẽ hiểu và có thể kiểm soát tâm trí mình.
Người khôn ngoan luôn tử tế và chu đáo. Họ luôn nhìn thấy những gì cần thiết. Họ để những bông tuyết rơi trên cơ thể nóng bức. Họ cung cấp nước mát để giải cơn khát tuyệt vọng.
-
Con đường dễ dàng luôn hấp dẫn. Vậy tại sao tôi lại thích con đường khó khăn? Trên con đường dễ dàng, chúng ta coi mọi thứ là hiển nhiên. Chúng ta trở nên lười biếng và buồn chán. Đây chính là công thức dẫn đến rắc rối và mất mát. Khi đi theo con đường khó khăn, chúng ta biết mình không được lơ là cảnh giác dù chỉ một giây. Chúng ta phải luôn cảnh giác để đối mặt với thử thách. Giải quyết vấn đề giúp trí óc minh mẫn hơn và tính cách mạnh mẽ hơn. Đây chính là thành tựu! Đây chính là lợi ích thực sự!
-
Tất cả chúng ta đều có xu hướng thích những người lắng nghe lời khuyên của mình và ghét những người phớt lờ chúng. Chúng ta nên tránh xu hướng này.
Nếu để cảm xúc chi phối, chúng ta đã phạm tội bỏ qua lời dạy của Pháp. Yêu và hận có thể làm nhiễm độc ý thức và làm suy yếu khả năng nhận thức sáng suốt, khả năng nhìn nhận bằng con mắt vô tư. Trong bóng tối, chúng ta có thể vấp ngã. Khi kiểm soát cảm xúc, chúng ta sẽ giữ được ánh sáng.
-
Con người khao khát sự kích thích giác quan. Họ tận hưởng loại khoái cảm bên ngoài này. Nhưng tôi coi sự khao khát đó là một dạng đau khổ. Sự kích thích giác quan tự nuôi dưỡng chính nó, ngày càng lớn hơn, và phát triển một sự thèm muốn ngày càng tăng. Con người sẽ tự hủy hoại mình và cả người khác khi cố gắng thỏa mãn nó. Niềm vui có được từ trí tuệ Pháp là niềm vui nội tại. Hạnh phúc tăng trưởng cùng với khả năng tận hưởng nó. Khi được lựa chọn giữa những niềm vui, những người giác ngộ luôn chọn Pháp.
-
Này, thành công nào cũng có mặt trái. Càng giàu có, càng kiêu ngạo. Địa vị càng cao, càng hống hách. Tham vọng càng lớn, càng thiếu suy nghĩ.
Thành công trong Phật pháp lại diễn ra theo cách khác. Bạn càng trở nên tốt hơn, bạn càng trở nên tốt hơn.
- Sóng làm mặt biển động và cối xay gió quay vì gió. Tắt gió, biển lặng và cối xay gió dừng lại. Mọi kết quả đều có nguyên nhân.
Những làn sóng ham muốn vật chất trong thế giới vật chất làm tâm trí chúng ta chao đảo, luôn trong trạng thái kích động, xô đẩy theo mọi hướng. Bạn nghĩ điều gì có thể xảy ra nếu chúng ta loại bỏ ham muốn?
- Dòng suối chảy chậm nếu nguồn nước cạn. Bánh xe nước sẽ không quay trong đó. Tòa nhà cao tầng sẽ không bền vững nếu nền móng lung lay. Tường nứt nẻ, sàn nhà sẽ sụp đổ. Độ sâu và sự vững chắc là điều thiết yếu cho công việc tốt và sự bền bỉ. Các bậc thánh nhân hiểu rõ điều này. Đó là lý do tại sao họ bám rễ sâu vào Pháp. Họ trở thành những tòa tháp của lòng tốt mà không gì có thể lay chuyển. Sự giác ngộ của họ là ngọn hải đăng dẫn đường và truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ.
Đừng chỉ học Pháp, ghi nhớ bề ngoài. Hãy dấn thân vào đó. Hãy đi sâu hết mức có thể.
-
Trời cao đất rộng, mắt thường dễ dàng nhìn thấy; nhưng chỉ một sợi xơ vải nhỏ cũng có thể làm hỏng tầm nhìn của mắt. Một trái tim tràn đầy tình thương có thể lan tỏa ra khắp vũ trụ; nhưng chỉ một ý nghĩ hận thù cũng có thể đâm thủng trái tim ấy, khiến tình thương ấy cạn kiệt. Đừng bao giờ đánh giá thấp sức mạnh của những điều nhỏ nhặt. Các thánh nhân luôn luôn cân nhắc kỹ lưỡng đến những suy nghĩ nhỏ nhặt nhất.
-
Dù trăm người uyên bác dự đoán thất bại, người thông thái tin vào năng lực của mình sẽ kiên trì và thành công. Dù trăm người ấy dự đoán thành công, người chỉ có kiến thức mà không có sự tự tin sinh ra từ trí tuệ sẽ thất bại.
Chỉ có kiến thức sách vở mới sinh ra nghi ngờ, và nghi ngờ gây ra mê lầm. Trong hoàn cảnh như vậy, lòng tự tin không thể phát triển. Nhưng trí tuệ dẫn đến tín nhiệm, và tín nhiệm khơi dậy sự sáng suốt và tư duy minh mẫn. Người theo Pháp theo đuổi con đường trí tuệ để loại trừ nghi ngờ và vận dụng kiến thức vào việc tốt.
-
Cách đây không lâu, khi một người rơi xuống rãnh nước, anh ta cũng cảm thấy như vậy đến nỗi thề bằng máu của mình sẽ sửa chữa con đường của mình và không bao giờ rơi xuống nữa. Ngày nay, khi một người thấy mình ở trong rãnh nước, anh ta lại gửi lời mời gọi những người khác đến tham gia cùng mình. Thật đáng buồn, phải không?
-
Điều duy nhất chúng ta có thể chắc chắn là chúng ta không thể chắc chắn về bất cứ điều gì. Sự thật duy nhất không thay đổi là vạn vật luôn thay đổi. Các vị thánh đã vun trồng lòng kiên nhẫn. Dù gặp phải hoàn cảnh nào, họ vẫn bình tĩnh chờ đợi. Họ cũng hiểu rằng trong chuyện tình cảm, không chỉ đối tượng thay đổi, mà cả chủ thể cũng vậy, vốn dễ thay đổi. Ham muốn có lẽ là thứ dễ thay đổi nhất.
-
Hãy rèn luyện thói quen đi ngủ sớm. Đây là cách tốt nhất để duy trì một tâm trí mạnh mẽ và an lạc. Những người thức khuya cần phải khoe khoang và tiếp đãi bạn bè. Nếu không, họ sẽ cảm thấy buồn chán và cần sự phấn khích. Dù có ngủ muộn, họ vẫn mệt mỏi khi thức dậy, cơ thể và tinh thần vẫn uể oải. Họ không thể làm việc hay suy nghĩ tốt. Những người thực hành Pháp sẽ có cuộc sống viên mãn và phong phú hơn. Họ không cần sự hỗ trợ của người khác. Những thói quen tốt giống như cơ bắp, càng được rèn luyện, chúng càng trở nên khỏe mạnh.
-
Mọi con sông, dù lớn hay nhỏ, trong hay đục, đều đổ ra biển và biển phản ứng bằng cách tạo ra hơi nước, rồi trở thành mây, mưa và lấp đầy sông. Đó là chu trình tuần hoàn.
Các vị thánh thể hiện tình yêu thương và sự tôn kính đối với tất cả mọi người, dù giàu hay nghèo, tốt hay xấu. Thấy được sự công bằng tuyệt vời ấy, dân chúng đáp lại bằng cách tôn kính các vị thánh và cố gắng noi gương họ. Đây cũng là một vòng tuần hoàn.
Hãy xem Pháp như dòng sông nhìn đại dương, nguồn cội của bản chất và vận mệnh đổi mới vô tận của nó. Hãy xem Pháp như bậc thánh nhìn nhân loại, đối tượng của tình yêu và phần thưởng cho tình yêu.
- Nếu bạn đối xử với người khác như những người khác biệt, tách biệt, hoặc khác biệt với chính mình, bạn sẽ không có xu hướng công bằng hay nhân từ khi phán xét họ. Nhưng nếu bạn đối xử với người khác như thể họ chỉ là phiên bản của chính mình, bạn sẽ hiểu được lỗi lầm của họ và trân trọng những phẩm chất của họ.
Chúng ta thật may mắn khi Trời nhìn Đất theo cách này.
- Nếu một người chỉ nhìn thấy những hình thức bề ngoài của vật chất và không thấu hiểu bản chất thực sự của thực tại thị giác, người đó sẽ bị mù quáng về mặt tâm linh.
Nếu một người chỉ nghe thấy chức năng tạm thời của tiếng ồn và không thấu hiểu được bản chất thực sự của thực tại thính giác, người đó sẽ bị điếc về mặt tinh thần.
Hình tướng và âm thanh chỉ là ảo ảnh. Chúng ta dùng thị giác và thính giác để xác định bản chất của chúng nhằm hiểu được bản chất thực sự của thực tại.
- Dòng chảy ý thức không ngừng nghỉ của bản ngã không thể dừng lại đủ lâu để thấu hiểu chân lý. Vậy mà con người vẫn luôn cố gắng tạo ra một rào cản ngăn dòng chảy ấy, dùng suy nghĩ để ngăn chặn suy nghĩ. Suy nghĩ giống như loài mèo hoang. Chúng ta sẽ không bao giờ dùng một con mèo hoang để thuần hóa một con khác.
Vậy thì làm sao chúng ta đạt đến trạng thái vô niệm? Chúng ta hiểu bản chất vô ngã của cả người suy nghĩ lẫn chính suy nghĩ đó. Chúng ta hiểu rằng thực ra chẳng hề có một ý nghĩ nhỏ nhoi nào, hay một người suy nghĩ nào cả. Khi chúng ta chứng kiến thực tại này, chính lời chứng của chúng ta giải thoát chúng ta khỏi sự ràng buộc của những ý nghĩ hay trạng thái vô niệm.
-
Bản chất của tâm và thân là trong sáng, tĩnh lặng, không hề có một ý nghĩ nào. Chính bản ngã suy nghĩ, cũng như chính bản ngã nghĩ rằng nó không muốn suy nghĩ. Bản ngã gây ra những vấn đề mà nó cố gắng giải quyết. Vắng bóng bản ngã là nghe được âm thanh vô thanh, thấy được cảnh tượng vô hình, nghĩ đến những ý nghĩ vô niệm.
-
Khi đạt đến trạng thái vô niệm, người ta nghĩ rằng mình đã giác ngộ Pháp. Người ấy nghĩ về kinh nghiệm thiền định của mình và cách nó sẽ thay đổi suy nghĩ của mình về môi trường xung quanh. Người ấy nghĩ rằng thật tuyệt vời khi mình đã kiểm soát được tâm trí. Sẽ không đúng nếu nói rằng mình có nhiều điều để suy nghĩ hơn. Thực ra, người ấy có ít hơn.
-
Thân thể càng thanh tịnh, Phật tánh càng sáng ngời. Ban đầu, chúng ta vẫn cần thân thể. Nó giống như ngọn đèn. Phật tánh chính là ngọn lửa này. Nhưng chúng ta vẫn có thể ý thức được những bóng tối. Khi chúng ta tiến bộ, chúng ta cảm thấy thân thể chính là vũ trụ và Phật tánh của chúng ta tỏa sáng khắp vũ trụ như mặt trời.
-
Không có khởi đầu cho những gì đã xảy ra trước đó, và không có kết thúc cho những gì sẽ xảy ra sau đó. Chính tư duy đã làm gián đoạn dòng chảy của thời gian và hiệu chỉnh nó. Chính tư duy đã quyết định rằng đêm sẽ nối tiếp ngày, rằng cái chết sẽ nối tiếp sự sống, rằng có những thứ nhỏ bé trong khi những thứ khác lại khổng lồ. Đối với vũ trụ, điều gì là lớn hay nhỏ, sáng hay tối, tương lai hay quá khứ?
-
Hành động thì nhỏ, Nguyên lý thì lớn. Hành động thì đa dạng, Nguyên lý thì chỉ có một. Những ai sống theo Nguyên lý, để ý nghĩa của nó chảy trong huyết quản, sẽ không bao giờ hành động trái ngược với nó. Trong mọi việc họ làm, họ đều thực hiện Nguyên lý. Dù bận rộn hay thoải mái, họ không bao giờ lừa dối, không bao giờ thao túng. Họ không có động cơ thầm kín và cũng không cần động cơ đó.
-
Không có gì trên đời này đạt được mà không có khát vọng, không có động lực. Bạn có thể chọn con đường trung thực và chân thành theo đuổi khát vọng của mình, hoặc bạn có thể chọn con đường lừa dối và đạt được điều mình muốn bằng những lời nói dối. Dù bằng cách nào, khi bạn có được điều mình khao khát, bạn sẽ trở nên gắn bó với nó – ít nhất là cho đến khi bạn khao khát một điều gì khác. Nhưng giữa con đường chân thành và gian xảo là một con đường mà cả hai chiến lược đều không cần thiết. Đây là con đường dẫn đến việc hiểu được bản chất của những ham muốn trần tục. Trên con đường này, động lực của bạn sẽ chết yểu trong khi bạn tiến thẳng về phía trước.
-
Khi bạn nghĩ đến một điều gì đó, bạn truyền sự tồn tại cho nó. Những đối tượng khơi dậy ham muốn sẽ biến mất khi tâm trí khép lại. Chúng hòa vào cảnh vật.
Cảm xúc cũng vậy. Hy vọng, sợ hãi, phán đoán đúng sai, cảm giác vui sướng hay đau khổ cũng tan biến khi tâm trí không vướng bận vào những sự kiện trần tục đã tạo ra chúng. Khi được giải phóng khỏi những thứ trần tục, tâm trí trống rỗng có thể chứa đựng không gian vô tận. Sự bình yên thấm đẫm sự thuần khiết của nó, thiên đường lấp lánh, và sự hòa hợp của các tinh cầu vang vọng khắp nơi.
- Càng cố gắng dùng ý chí để xóa bỏ dục vọng, người ta càng củng cố dục vọng ấy. Sức mạnh bổ sung chỉ làm họ thêm rối trí. Họ bị ám ảnh bởi vấn đề. Càng nói về Pháp mà không hiểu Pháp là gì, họ càng củng cố sự vô minh của mình. Họ càng chìm đắm trong vô minh và chẳng mấy chốc tự cho mình là những tòa tháp chính trực. Họ giống như cá rời khỏi nước cố dạy người khác bơi, hoặc như chim trong lồng dạy bay.
Nếu bạn muốn chế ngự một ham muốn, hãy tháo bỏ lớp mặt nạ của nó và nhìn nhận nó đúng bản chất. Ngay lập tức, nó trở nên tầm thường – không đáng để suy nghĩ thêm lần nào nữa. Nếu bạn muốn nói về Pháp, hãy để nó trở thành môi trường sống tự nhiên của bạn. Hãy thoải mái trong đó. Hãy làm quen với bản chất con người bằng cách nhận ra những lỗi lầm và ham muốn thấp hèn của chính mình. Ngay lập tức, bạn sẽ tha thứ cho lỗi lầm của người khác. Hãy khiêm nhường và dịu dàng trong tình yêu thương nhân loại. Đó là cách làm gương cho người khác noi theo. Sự cứng nhắc kiêu ngạo không phải là sự chính trực. Đó là sự nghiêm khắc về mặt tâm linh đến chết.
-
Những người nghiêm túc với Pháp tìm kiếm tuệ giác trong mọi việc họ làm. Dù bận rộn hay nghỉ ngơi, dù một mình hay giữa đám đông, trong mọi hoàn cảnh họ gặp phải, họ đều cố gắng duy trì sự tỉnh thức. Sự tỉnh thức như vậy không dễ dàng. Nhưng một khi họ đã quen với việc thực hành, nó trở thành một hoạt động tự nhiên đến nỗi không ai xung quanh họ nghi ngờ những gì họ đang đạt được.
-
Nếu bạn loại bỏ một ngọn cỏ khỏi vũ trụ, vũ trụ không còn có thể được coi là bao hàm tất cả. Nếu bạn đưa một ý nghĩ tham lam hay dục vọng nhỏ nhoi vào một tâm trí thanh tịnh, tâm trí đó không còn có thể tự nhận là trong sạch.
Hãy cẩn thận với những điều nhỏ nhặt. Sự vắng mặt hay hiện diện của chúng có thể thay đổi mọi thứ.
- Tâm mở rộng ra vũ trụ; thân co lại như chuột. Giác ngộ là thấu hiểu động lực của Pháp.
Khi tâm trí bay bổng vào không gian vô biên, cơ thể vẫn bị giới hạn trong môi trường trần tục. Nó thường được tìm thấy đang chạy lăng xăng trong bóng tối.
- Thật lãng phí thời gian và công sức khi cố gắng đạt được những vật chất mà ta khao khát. Việc sở hữu chúng sẽ không mang lại sự thỏa mãn lâu dài, bởi vì chính khi đạt được chúng, chúng đã không còn là đối tượng của ham muốn nữa. Chúng bị thiêu rụi như củi và “lễ vật thiêu”. Chúng ta nhổ tro ra khỏi miệng và tìm một cây khác để chặt.
Các vị thánh đã nỗ lực tìm kiếm những hiểu biết tâm linh. Họ đặt câu hỏi về ý nghĩa của cuộc sống. Đạt được sự thấu hiểu này, họ đã đạt được vũ trụ. Không còn gì để khao khát, họ không thắp lên ngọn lửa hy sinh.
-
Vũ trụ rộng lớn đến đâu, nó cũng vừa vặn trong tâm trí. Cơ thể nhỏ bé đến đâu, tạo hóa cũng không đủ để thỏa mãn nó.
-
Vạn vật trong vũ trụ đều có Một Bản chất. Người sống trong Bản chất có tất cả những gì họ có thể mong muốn. Người giác ngộ sở hữu. Người chưa giác ngộ ham muốn.
-
Người tự cho mình là cao hơn người khác thường xuyên phán xét và nhận thức sự khác biệt. Anh ta cứng nhắc trong việc đối lập: tốt hay xấu, đúng hay sai. Nếu anh ta tuân theo tiêu chuẩn công bằng của riêng mình, anh ta sẽ phải từ bỏ ít nhất một nửa tạo vật.
Người thực hành Pháp luôn nỗ lực để hòa nhập với toàn thể nhân loại. Người ấy không phân biệt đối xử và thờ ơ với những khác biệt về phẩm chất. Người ấy biết rằng Phật Tánh là Thực Tại Duy Nhất, Bất Khả Phân. Người thực hành Pháp luôn nỗ lực để luôn ý thức rằng mình được hòa nhập vào Thực Tại Duy Nhất ấy.
- Núi non, sông ngòi và cả trái đất đều là một phần của Đấng Nhất Thể. Tâm trong sáng thì trong suốt; mọi sự tồn tại đều có thể được nhìn thấy qua nó. Tâm bị che mờ bởi ảo tưởng của bản ngã chỉ thấy chính nó.
Hãy cố gắng nhận ra rằng bạn được bao gồm trong Đấng Duy Nhất! Cơ thể bạn có thể sống trong thế giới vật chất, nhưng tâm trí bạn sẽ hiểu rằng không có gì ngoài chính nó mà nó có thể khao khát.
-
Trong sự tĩnh lặng hoàn hảo của Pháp, tâm thấu hiểu mọi thứ. Lưỡi không nói được lời nào, tai không nghe được âm thanh nào, mắt không thấy được cảnh nào. Người sống trong Pháp là sống trong tâm. Kỳ lạ thay, dù thân xác có tàn tạ, hơi thở của họ vẫn luôn thơm tho như làn gió mát. Thật tuyệt vời biết bao khi được gần họ!
-
Tôi đã học được rất nhiều điều từ những người bị xã hội ruồng bỏ. Đúng vậy. Hãy nghe lời khuyên của tôi. Nếu bạn muốn tìm được những người thầy giỏi, hãy tìm đến những người đã bị xã hội ruồng bỏ vì họ mù, điếc hoặc dốt nát.
-
Đối tượng của thế giới vật chất là đạo cụ, bối cảnh và nhân vật của một vở kịch mộng. Khi một người thức dậy, sân khấu biến mất. Diễn viên và khán giả cũng biến mất. Thức dậy không phải là chết. Những gì sống trong mơ có thể chết trong mơ; nhưng người mơ có một sự tồn tại thực sự không tan biến cùng giấc mơ. Tất cả những gì cần thiết là anh ta ngừng mơ, ngừng bị mê hoặc bởi những hình ảnh trong mơ, và nhận ra rằng anh ta chỉ là một người mơ.
-
Hầu hết mọi người chỉ nhận thức được sự thay đổi. Với họ, vạn vật sinh ra rồi mất đi. Sớm muộn gì, cái mới cũng sẽ trở nên cũ kỹ, cái quý giá cũng sẽ trở nên vô giá trị. Cái tôi của họ quyết định bản chất vận mệnh của vạn vật.
Khi sự tồn tại được định nghĩa bằng những khái niệm hữu hạn, phù du như vậy, thì quyền lực kiểm soát con người và vạn vật tự nhiên bị coi là một sự thể hiện của bản ngã. Và tại sao lại không chứ? Chẳng phải bản ngã là một thẩm quyền về vấn đề thay đổi sao? Dĩ nhiên, khi nói đến Điều Duy Nhất Không Bao Giờ Thay Đổi, bản ngã lại vô cùng ngu ngốc. Ngày nay, con người không còn trân trọng Điều Bất Biến. Họ chạy theo mọi mốt và xu hướng. Họ giống như những diễn viên hài, cố gắng tìm kiếm những trò đùa mới. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào việc giữ cho khán giả cười.
Điều thực sự buồn cười là niềm tin của họ rằng họ tự do, quyền lực và nắm quyền kiểm soát. Thực ra, họ chỉ là những nô lệ bất lực của một ảo tưởng.
-
Có hai cách để nhận thức Pháp: Đốn Đạo, tức là chướng ngại ảo tưởng bị phá vỡ bởi một nhận thức đột phá; và Dần Đạo, tức là chướng ngại ảo tưởng được giải trừ dần dần, bằng nỗ lực liên tục. Bằng cách này hay cách khác, chướng ngại phải bị phá bỏ.
-
Tâm Phật bao hàm vũ trụ. Trong vũ trụ này chỉ có một bản thể thuần khiết, một Chân lý tuyệt đối và bất khả phân. Khái niệm nhị nguyên không tồn tại.
Tâm nhỏ bé chỉ chứa đựng những ảo tưởng về sự tách biệt, về sự phân chia. Nó tưởng tượng ra vô vàn sự vật và định nghĩa chân lý bằng những mặt đối lập tương đối. Lớn được định nghĩa bằng nhỏ, tốt bằng xấu, thanh tịnh bằng ô uế, ẩn giấu bằng hiển lộ, đầy đủ bằng trống rỗng. Đối lập là gì? Đó là đấu trường của thù địch, của xung đột và hỗn loạn. Nơi nào vượt qua được tính nhị nguyên, nơi đó an bình ngự trị. Đây là chân lý tối hậu của Pháp.
-
Mặc dù chân lý của Pháp không thể diễn tả bằng lời, nhưng các vị thầy vẫn cứ nói mãi, cố gắng giải thích nó. Tôi cho rằng bản chất con người là nói rằng điều gì đó không thể giải thích được rồi dành hàng giờ cố gắng giải thích nó. Chẳng trách mọi người lại bỏ đi. Chà, chúng ta có thể giải trí hơn. Chúng ta có thể bịa ra những câu chuyện thú vị và lôi cuốn khán giả bằng những lời hứa hẹn nịnh hót. Dĩ nhiên, chúng ta chỉ đang chồng chất ảo tưởng lên ảo tưởng. Nhưng điều đó thì liên quan gì đến Pháp?
-
Một người đơn độc không thể duy trì một cuộc trò chuyện. Một cái trống phải rỗng thì âm thanh mới vang vọng. Sự vắng mặt cũng quan trọng. Ngôn từ có giới hạn. Cách diễn giải khác nhau. Những gì không được nói ra cũng quan trọng. Chân lý tuyệt đối không thể diễn đạt bằng lời nói. Nó phải được trải nghiệm.
Và sau đó, trong sự im lặng hùng hồn, chúng ta thể hiện rõ nhất rằng mình đã thức tỉnh với Pháp.
📜 TÁC PHẨM
Số lượng tác phẩm do sư viết, dịch hay luận rất nhiều trong đó bao gồm (Xin xem thêm một số chi tiết về các tác phẩm đã dịch ra Việt hay Anh ngữ của đại sư trong phần tham khảo)
- 1576: “Hám Sơn Trứ Ngôn”
- 1586: “Lăng Nghiêm Huyền Cảnh”
- 1587: “Tâm Kinh Trực Thuyết”
- 1597: “Lăng Già Bổ Di” 1
- 1597: “Trung Dung Trực Chỉ”
- 1598: “Pháp Hoa Cổ Tiết”
- 1604: “Xuân Thu Tả Thị Tâm Pháp”
- 1607: “Đạo Đức Kinh Chú”
- 1609: “Kim Cang Quyết Nghi”
- 1610: “Đại Học Quyết Nghi”
- 1612: “Pháp Hoa Phẩm Tiết”
- 1614: “Lăng Nghiêm Thông Nghĩa”
- 1615: “Pháp Hoa Thông Nghĩa”
- 1615: “Khởi Tín Sơ Lược”
- 1616: “Triệu Luận Chú” 2
- 1616: “Tánh Tướng Thông Thuyết”
- 1619 - 1622: “Hoa Nghiêm Cương Yếu”
- 1620: “Khởi Tín Luận Trực Giải” 3
- 1620: “Viên Giác Kinh Trực Giải”
- 1620: “Trang Tử Nội Thất Biến Chú”
✨ HÀNH TRẠNG CHI TIẾT
- 1546: Sanh ngày 5, tháng 11
- 1557: Làm Sa Di tại chùa Báo Ân
- 1564: Được hòa thượng Tây Lâm truyền giới
- 1565: Hành Thiền tại chùa Thiên Giới
- 1567: Dạy tại trường Nghĩa Học
- 1571: Du hành đến Giang Tây
- 1572: Du hành đến Bắc Kinh
- 1574: Du hành với Diệu Phong đến Sơn Tây. Đạt giác ngộ
- 1575: Trụ tại núi Ngũ Đài (đến 1582)
- 1576: Gặp đại sư Liên Trì (Vân Thê Châu Hoằng)
- 1577: Viết Kinh Hoa Nghiêm bằng máu
- 1580: Cứu núi Ngũ Đài khỏi bị thuế
- 1583: Đến núi Lao Sơn (ở cho đến 1589)
- 1586: Xây chùa Hải Ấn
- 1588: Giảng pháp tại chùa Hải Ấn
- 1589: Trở về Nam Kinh
- 1593: Cứu trợ nạn đói tại Sơn Đông
- 1595: Bị bắt và xử án tại Bắc Kinh
- 1596: Bị giải đày đến Lôi Châu (Quảng Đông)
- 1597: Đến Quảng Đông
- 1599: Cổ động phong trào phóng sanh theo truyền thống Phật giáo
- 1600: Giải hòa một vụ nổi loạn tại Quảng Đông
- 1601: Đến Tào Khê (cho tới năm 1610)
- 1604: Trở về Lôi Châu; thành lập viện Đông Lâm hàn lâm
- 1605: Đến Hải Nam; trở về Tào Khê
- 1606: Trở lại Lôi Châu; được xác nhận triều đình ban lịnh ân xá
- 1607: Thành tăng sĩ trở lại
- 1608: Trùng tu am Bảo Nguyệt
- 1610: Rời Tào Khê; đến trú trên sông Phù Dong
- 1610: Ở tại Cao Yếu; chánh thức được ân xá
- 1612: Giảng pháp tại Quảng Đông
- 1613: Bị nhức lưng dữ dội do mụt nhọt; rời Quảng Đông đến Khuông Sơn
- 1614: Cạo tóc, đắp y ca sa lại
- 1616: Đến miền đông duyên hải
- 1617: Giảng kinh tại Tông Kính Đường; an dưỡng tại Khuông Sơn
- 1618: Xây chùa Pháp Vân tại Khuông Sơn
- 1619: Nhất tâm tu pháp môn Tịnh Độ
- 1621: Giảng pháp tại Khuông Sơn; in Mộng Du Thi Tập
- 1622: Trở về Tào Khê
- 1623: Nhập tịch ngày 5 tháng 11 tại Tào Khê
NGUỒN
🔗 NHỮNG LỜI KHAI THỊ CỦA ĐẠI SƯ HÁM SƠN
🔗 YẾU CHỈ TU CHỨNG CHO NGƯỜI SƠ HỌC
🔗 ĐƯỜNG MÂY TRONG CÕI MỘNG Audio
🔗 NGỮ LỤC