Lăng Già Bút Ký - Tập 1


NHẤT THIẾT PHẬT NGỮ TÂM

CHƯƠNG MỘT – PHẦN ĐẦU

Dùng Tâm đặt tên cho phẩm là dùng nhất tâm làm tông. Nghĩa là tịch diệt gọi là nhất tâm, tức là tánh tự tánh thanh tịnh đệ nhất nghĩa tâm. Tất cả chư Phật đều chứng tâm này, vì chúng sanh khai thị cũng chỉ thẳng tâm này, nên nói “Tất cả chư Phật dạy về tâm.” Chú giải xưa: Kinh này đại bộ có một trăm năm mươi phẩm, mười vạn bài kệ, bốn mươi vạn câu, ba trăm hai mươi vạn lời, truyền sang Trung Hoa chỉ có một phẩm. Tuy văn rộng quyển nhiều, kỳ thật nói chung đều chỉ thẳng pháp Nhất tâm này.

Kinh này trong mười hai bộ thuộc về bộ Vị Tằng Hữu, trong năm giáo thuộc đốn giáo Đại thừa, lại gồm “đốn viên” nghĩa là đốn chí viên mãn nhất tâm, vì năm tánh ba thừa đều đồng chứng.

Nếu đem năm nghĩa của Thiên Thai giải thích thì kinh này dùng đơn dụ làm danh, vì đem báu Lăng-già dụ cho thức tánh. Phật và ma đều ở chung trong thành báu núi báu, dụ cho thân tâm năm uẩn là chỗ nương của tất cả phẩm thánh. Dùng Như Lai tạng làm thể, nghĩa là Như Lai tạng là nhân của thiện và bất thiện, tự tánh thanh tịnh chuyển 32 tướng vào trong tất cả chúng sanh. Tánh tự tánh đệ nhất nghĩa tâm làm tông, vì tất cả phẩm thánh đồng chứng vậy. Tôi tá hiển chánh đoan nghi sanh tín làm dụng, vì muốn chặt lưới nghi của hàng Nhị thừa ngoại đạo tà kiến, khiến họ sanh lòng tin quyết định vào pháp Nhất thừa. Dùng thực tỏ làm giáo tướng, nói năm tánh ba thừa đều có cơ hội thành Phật, chỉ trông mong thọ ký thì có thể một phen biến chuyển liền thấy đạo, như thực tổ một phen biến chuyển bên thành đệ hồ, ra sức rất dễ, nghĩa là lược chỉ bày cho hàng căn cơ khai quyền hiển thật, để làm tiền đạo cho Pháp Hoa.

Nếu nói về tông thú, thì lấy đệ nhất nghĩa tâm làm tông, tự giác thánh trí làm chỗ thú hướng, lại lấy tự giác thánh trí vô tướng pháp nghĩa tâm làm tông, quên lời thâm chứng làm chỗ thú hướng.

A. PHẦN TỰ

⚡️ KINH

Tôi nghe như vầy: Một thuở nọ đức Phật ở trên đỉnh núi Lăng-già, tại bờ biển phía Nam, có các thứ hoa báu trang nghiêm, cùng với các chúng đại Tỳ-kheo Tăng và chúng đại Bồ-tát nhóm hợp. Các vị ấy đều từ các cõi Phật nơi khác mà đến. Các vị đại Bồ-tát ấy có vô lượng sức tam-muội tự tại, thần thông du hý, đại Bồ-tát Đại Huệ làm thượng thủ.

Các Ngài đã được tất cả chư Phật đưa tay làm lễ quán đảnh, rất giỏi hiểu nghĩa cảnh giới tự tâm hiện, các loài chúng sanh, các thứ sắc và tâm, vô lượng đồ môn đều tùy loại hiện khắp. Đối với năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã đều thông đạt rốt ráo.

💥 GIẢI

Đây là trình bày nhân duyên khai pháp. Tôi nghe như vầy… nghĩa là pháp như thế, tôi đã nghe từ đức Phật. Một thời, là thời gian của căn cơ cảm đến và hợp hội, không nhất định là thời nào. Phật là vị chủ thuyết pháp. Núi là nơi thuyết pháp. Bồ-tát là thính chúng Lục chủng thành tựu. 1 Lời kết tập này, nhân lời di chúc của đức Phật tất cả đầu kinh đều phải để, không cần nói việc khác.

Trên đỉnh núi dùng các thứ hoa báu để trang nghiêm, nghĩa là pháp tối đỉnh vô thượng Như Lai tạng tâm đầy là nhân địa của tất cả chư Phật. Phật cùng Bồ-tát đều từ cõi Phật khác đến, để biểu thị trong đây không lập thánh phàm. Đại Huệ là thượng thủ, vì pháp này chẳng phải tâm thức có thể đến được, chỉ có bậc đại trí mới có thể vào.

Từ câu “Tự tâm” trở xuống là tán thán đức. Cho đến câu “Các loài chúng sanh, các môn tâm sắc, vô lượng độ môn, năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã…” Đều là cảnh tự tâm hiện mà chỉ riêng bậc đại trí huệ mới hiểu rành nghĩa ấy, thông suốt cùng tột.

📝 Cả 2 bản dịch 2 đều nói:

Đức Phật ở trong thành Lăng-già, trên đỉnh núi Ma-la-da nằm tại biển lớn, thành này là chỗ của vua Dạ-xoa Bà-la-na (Ravana).

Nhân khi Phật thuyết pháp ở cung vua rồng biển, sau 7 ngày bèn từ biển lên, đưa mắt nhìn thành trì trên đỉnh núi mà tự nói

“Xưa các đức Như Lai Ứng Chánh đẳng giác ở đây nói chỗ sở đắc của mình. Lời thuyết của bậc thánh trí chẳng phải chỗ phỏng đoán tà kiến của ngoại đạo và cảnh giới tu hành của Nhị thừa. Hôm nay ta sẽ vì vua Bà-la-na khai thị pháp này”.

Lúc ấy vua Dạ-xoa nương thần lực của Phật, nghe được ngôn âm của Phật, bèn cùng quyến thuộc thỉnh Phật về thành…

Cả hai bản dịch đều có nhân duyên hỏi pháp của vua Dạ-xoa, kinh này lược bớt, người xem dung hội được bản dịch kia, ắt chứng thấy được tông thú của kinh vậy.

⚡️ KINH

Lúc bấy giờ Bồ-tát Đại Huệ và Bồ-tát Ma-đề đều đạo các cõi nước Phật, nương sức thần của Phật, tụ họp đứng dậy, trịch áo bày vai bên mặt, đầu gối một mặt chấm đất, chắp tay cung kính dùng kệ khen ngợi Phật.
💥 GIẢI

Đây là trình bày riêng về nghi thức của đường cơ gặp Phật. Đại Huệ là đường cơ, pháp môn vô thượng này không phải người đại trí huệ không thể đảm đường. Ở đây đưa ra việc Bồ-tát Ma-đề cùng đạo chơi đó, Ma-đề cúng dường là Huệ, nghĩa là “Bậc đạt đạo cùng đạo chơi trên đường Niết-bàn”.

⚡️ KINH

Thế gian lìa sanh diệt

Vì như hoa hư không,

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi.

Tất cả pháp như huyễn

Xa lìa nơi tâm thức,

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi.

Xa lìa chấp đoạn thường

Thế gian hằng như mộng

Trí chẳng thấy có, không

Mà khởi tâm đại bi.

Biết nhân pháp vô ngã

Phiền não và sở tri (nhị diệm)

Thường thanh tịnh không tướng

Mà khởi tâm đại bi.

Tất cả không Niết-bàn

Không Niết-bàn của Phật

Không có Phật Niết-bàn

Xa lìa giác, sở giác

Hoặc có hoặc không có

Cả hai thảy xa lìa.

Quán Mâu-ni tịch tĩnh

Đó là xa lìa sanh

Ấy gọi là chánh thú

Đời này đời sau tịnh.

💥 GIẢI

Đây là chánh phát khởi tông thú của toàn kinh.

Nhị diệm là Phạn ngữ, dịch là sở tri, lại dịch là trí chướng. “Tất cả không Niết-bàn”.

Ngụy dịch: Không và có, cái hai đều lìa. Chữ “tất cả” để chỉ cho chỗ sanh tử là pháp có, Niết-bàn là pháp không.

Chữ “không” trong câu kệ để chỉ cho cả hai sanh tử và Niết-bàn đều không.

🔖 Cho nên Tạp Hoa 3 nói

“Có tranh chấp là sanh tử, không tranh chấp là Niết-bàn”.

Sanh tử và Niết-bàn cả hai đều bất khả đắc. Vì vậy kẻ đó giải thích “Không có Niết-bàn của Phật, không có Phật vào Niết-bàn, xa lìa năng giác sở giác, có không cả hai đều lìa”.

Thế nên biết hai cái này là vọng kiến phân biệt.

🔖 Trong bản dịch của ngài Thật-xoa Nan-đà nói:

❓ Vua Dạ-xoa thỉnh Phật vào thành Lăng-già, cúng dường xong rồi liền đem hai pháp ra hỏi Phật, nói rằng:

“Như Lai thường nói pháp còn phải xả huống gì phi pháp. Làm sao xả được hai thứ pháp này? Thế nào là pháp? Thế nào là phi pháp?”

⚡️ Đức Thế Tôn đáp:

“Tướng sai biệt giữa pháp và phi pháp là do phàm phu phân biệt, chẳng phải chỗ thấy của bậc thánh trí… Thế nào là pháp? Nghĩa là vì Nhị thừa và ngoại đạo phân biệt một cách hư vọng, nói rằng có “Thật” là nhân của các pháp. Những pháp như thế nên bỏ nên lìa, không nên ở trong ấy mà phân biệt chấp tướng. Thấy pháp tánh tự tâm ắt không chấp trước; các vị tu quán hạnh, dùng Tỳ-bà-xá-na quán sát như thật, gọi là xả các pháp. Thế nào là phi pháp? Nghĩa là các pháp vô tánh vô tướng lìa hẳn phân biệt. Người thấy như thật thì dầu có hay không, các cảnh giới như vậy họ đều không khởi chấp, gọi là xả phi pháp.”

🔔 Ngài Bồ-đề-lưu-chi nói:

Người thấy như thật gọi là chánh kiến, nếu thấy khác gọi là tà kiến; nếu phân biệt hai bên gọi là nhị thủ, đều là hư vọng, không được tịch diệt. Tịch diệt gọi là Nhất tâm, Nhất tâm gọi là Như Lai tạng, bậc Như Lai tạng nhập cảnh giới trí huệ tự thân, được tam-muội Vô sanh pháp nhẫn, nên bài kệ này khen Phật “Có không cả hai đều lìa”, rất sâu xa.

Hai kiến chấp có – không là cái gai của pháp thân. Cảnh giới tự giác thánh trí không gì khác là chỉ biết đây, lìa đây (có không) mà thôi, lại không có thật pháp có thể được. Thật là tông thú chí cực của kinh này vậy.

Người tu hành biết chỗ này thì có thể gọi là hành vô hành, chứng vô chứng. Tâm còn một niệm về hành, chứng chưa quên thì lại rơi vào đây (có không). Huống gì đem ngôn ngữ văn tự phân biệt chỗ là được ư?

Người tu quán nếu quán được như vậy mới gọi là biết thật tướng các pháp. Như thế, các lời hỏi của Đại Huệ sau này, đều là hai pháp có – không, đức Thế Tôn đều khiến phải bỏ lìa mà thôi, nên đáp “Tất cả đều phi”. Lìa đây bỏ đây chẳng phải tự giác thánh trí là gì?

🔔 Bài kệ cuối, ngài Lưu-chi nói:

Nếu quán Phật như thế, tịch tịnh lìa sanh diệt.

🔔 Ngài Thật-xoa nói:

Người này, đời này đời sau, lìa chấp không chỗ nhiễu não giả. Ý chỉ toàn kinh, không ra ngoài câu hỏi của vua Dạ-xoa và lời khen tán Phật của Đại Huệ.

⚡️ KINH

### A₂. PHẦN CHÁNH TÔNG

B₁. Trực chỉ nhất tâm chân như để chỉ ba cõi duy tâm, có 2

C₁. Hỏi 108 câu

Lúc bấy giờ Bồ-tát Đại Huệ đứng kệ tán Phật rồi, tự nói tên họ: Con tên là Đại Huệ, thông đạt Đại thừa, nay dùng nghĩa 108 câu, kính hỏi bậc Tôn tối thượng.

Đức Phật nghe Bồ-tát nói kệ, quán sát tất cả chúng, bảo các Phật tử rằng: Phật tử các ông, cho phép các ông hỏi, ta sẽ vì các ông nói về cảnh giới tự giác…

Lúc bấy giờ Bồ-tát Đại Huệ nhân được Phật cho phép, đảnh lễ dưới chân Phật chắp tay cung kính dùng kệ hỏi.

💥 GIẢI

Ban đầu ngài Đại Huệ dùng nghĩa của 108 câu hỏi Phật. Bởi vì nương nhất tâm chuyển biến năm pháp, ba tự tánh, tám thức, hai vô ngã, pháp nhân quả của mê và ngộ mà hỏi đó.

Xưa nói 108 câu tiêu biểu đối trị 108 phiền não, chẳng phải ý chỉ của Đại Huệ. Bởi nhất tâm là Phật ngữ tâm. Tịch diệt gọi là Nhất tâm, vốn không có tướng chánh báo, y báo của sắc tâm trong mười cõi, chỉ vì mê tâm này là sanh tử, cho nên biến nhất tâm thành tâm giới. Ngộ tâm này là Niết-bàn, cho nên chuyển tâm giới thành nhất tâm. Nhưng sanh tử là có pháp, Niết-bàn là không pháp, cả hai đều do ngu phu phân biệt vọng thấy, còn trong tâm tịch diệt vốn không việc này.

Thế nên câu hỏi của Đại Huệ là hỏi về các thứ tướng sai biệt của tâm hành, của nhân quả mê ngộ, sắc tâm, y báo chánh báo trong mười cõi, tóm lại không ra ngoài phàm thánh, có không. Đây là rắc rối pháp đối đãi vọng kiến phân biệt. Đâu không biết tịch diệt nhất tâm này tuyệt các đối đãi, nên kệ nói “Hoặc có hoặc không, cả hai đều lìa”. Phật sắp chỉ thẳng nguồn tâm tối cực, nên sau đây mỗi mỗi lập lại lời hỏi và bài xích đó, nói rằng phi. Đây là chính thật lìa tâm ý ý thức, ra khỏi con đường phàm thánh, chỉ có cảnh giới tự giác thánh trí của chư Phật. Tuy là bậc đại trí huệ cũng không khỏi rơi trong số câu, huống gì người khác.

Tôi cho rằng trăm lẻ tám câu này, căn cứ chung trên ba cõi rất mươi lăm loài, trên pháp có khởi cái thấy từ cú mà lập.

Nghĩa là phàm phu ngoại đạo thấy ba cõi thật là pháp có, là hữu cú; Nhị thừa thấy ba cõi là pháp không, là vô cú.

Bồ-tát thấy ba cõi tức chân tục tục, là cũng hữu cú cũng vô cú, chỉ có Phật thấy ba cõi phi chân phi tục là phi hữu cú phi vô cú.

Đây là điều chánh giáo thuyết minh, mà các tông phái ngoại đạo tự lập ra hữu vô, nhất di, câu bất câu, thường vô thường v.v… tự cú.

Mỗi tông phái chấp theo một kiến chấp, không ra ngoài phân biệt kế độ của thường tình.

Do kiến chấp của tà chánh có 8 4, cảnh bị chấp có 100 5, nên ngài Lưu-chi nói 108 kiến chấp ở trong chánh vị đều bị che.

Nếu tứ cú đã lìa thì bách phi tự trừ, lại có phiền não nào để bỏ, lại có Phật đạo nào để giữ?

Cho nên Tăng hỏi Mã đại sư: Lìa tự cú là tuyệt bách phi, xin Thầy nói thẳng cho con ý Tây lai.

Sư nói: Hôm nay ta nhức đầu, không thể nói cho ông nghe, hãy đi hỏi Trí Tạng.

Thế nào tịnh niệm kia?

Thế nào niệm tăng trưởng?

Thế nào thấy si hoặc?

Thế nào hoặc tăng trưởng? 6

Đây y cứ chung trên nhất-tâm có ra hai nẻo sanh diệt – mê ngộ mà hỏi.

Đại Huệ thưa thỉnh về nghĩa trăm lẻ tám, lời đầu tiên liền hỏi bốn câu này, bởi nguồn chân nhất tâm, thánh phàm bình đẳng, trọn không có tướng sai biệt.

Nhưng theo sự phân chia mê ngộ thì có sai khác về các thứ tánh tướng, nhân quả, y chánh trong mười cõi.

Nay muốn gần cùng tột nguồn gốc của mười cõi, nên đầu tiên đưa ra kiến chấp mê ngộ.

Nghĩa là mê nhất tâm thì chánh trí biến thành vọng tưởng, như như đổi thành danh tướng; đây là chỗ hoặc niệm lớn mạnh.

Ngộ nhất tâm thì vọng tưởng tức thành chánh trí, danh tướng là như như, đây là chỗ niệm thanh tịnh thấy được si hoặc.

Bởi đều là việc bên mê ngộ, nên kinh nói: “Theo lưu chuyển thì vọng thấy sanh tử; chân lưu chuyển vọng thấy Niết-bàn”.

Đó là Đại Huệ y cứ theo đối đãi giữa mê ngộ trong cửa sanh diệt mà hỏi, nên trước đem tịnh niệm – không tịnh niệm, kiến hoặc – chẳng kiến hoặc để gãy đầu mối, mà chỗ chỉ ra về sau đều là tướng sai biệt ở trong mê ngộ.

Phật một bề y nhất tâm chân như mà đáp, cho nên sau đó, ban đầu lập lại lời hỏi, và liền bảo rằng: “Hoặc sanh hoặc chẳng sanh, Niết-bàn và không tướng, lưu chuyển không tự tánh”.

Tức hai câu sanh chẳng sanh, Niết-bàn không tướng, là lập lại hết những câu hỏi của Đại Huệ. Hai chữ “lưu chuyển” để quở hết những kiến chấp của Đại Huệ.

Nghĩa là sanh tử Niết-bàn đều là tướng hoa đốm nhọc nhằn cuồng si điên đảo, đều thuộc lưu chuyển. Và đem ba chữ “vô tự tánh” hiển bày trọn vẹn thật tướng các pháp, phá hết mọi nghi ngờ của Đại Huệ.

Song Thế Tôn tuy dùng mấy chữ này để đáp, cũng là sanh diệt đối đãi, chỗ nguồn tâm tịch diệt vốn không việc này, cho nên lặp lại câu hỏi rồi, mà mỗi mỗi nói thẳng rằng “Phi”. Đây chính là “Pháp còn phải bỏ huống gì phi pháp, hoặc có hoặc không, cả hai thảy đều lìa”. 7 Học giả hiểu rõ điều này mới có thể nhập Lăng-già.

Thế nào cõi hóa tướng?

Thế nào vô thọ thụ?

Vì sao tên Phật tử?

Ai buộc? Ai giải thoát?

Và các chúng ngoại đạo.

Giải thoát đến chỗ nào?

Đây là hỏi chung về danh tướng và báo chánh báo trong mười cõi, nhân gì mà có.

Sát độ và Hóa tướng là chỉ hai cõi: Thật báo trang nghiêm độ và Phàm thánh đồng cư độ. Vì đứng về danh tướng nên không nói Tịch quang độ.

Các ngoại đạo là chỉ chung phàm phu trong ba cõi. Vô thọ thứ nghĩa là thứ lớp kế tiếp của vô thọ, để chỉ hàng tam thừa hữu học.

Vô thọ là chỉ chung tam thừa vô học. Phật tử riêng chỉ Bồ-tát. Giải thoát là Niết-bàn, buộc là sanh tử, nghĩa là ai bị trói trong sanh tử, ai giải thoát trong Niết-bàn. Niết-bàn chỉ cho Phật giới.

1 – Những gì cảnh giới thiện? 2 – Tại sao có ba thừa? 3 – Cúi mong vì giải nói. 4 – Duyên khởi chỗ nào sanh? 5 – Thế nào tác, sở tác? 6 – Thế nào đồng dị thuyết? 7 – Thế nào là tăng trưởng? 8 8 – Thế nào Vô sắc định? 9 – Và cùng diệt chánh thọ? 10 – Thế nào là tưởng diệt? 11 – Vì sao từ định giác? 12 – Thế nào là tạo các sanh? 13 – Tiến đi và giữ thân? 14 – Thế nào hiện phân biệt? 15 – Thế nào sanh các địa?

Mười lăm câu này là hỏi riêng về tướng sai biệt trong chín cõi.

Ba câu đầu hỏi hành tướng ba thừa nhân đâu mà có. Duyên khởi (4) là hỏi chánh pháp. Hai câu sau (5,6) hỏi tà kiến của ngoại đạo nhân đâu mà khởi. Hai câu (7,8) hỏi nhân quả ba cõi nhân đâu mà có. Hai câu (9,10) hỏi Tiểu thừa nhân gì mà ưa trụ tịch tĩnh không ưa thuyết pháp. Bốn câu (11,12,13,14) hỏi Bồ-tát Đại thừa nhân gì mà ưa thuyết pháp độ sanh. Câu (15) hỏi Bồ-tát nhân gì mà lập địa vị danh mục.

Phá ba cõi là ai?

Vãng sanh đến chỗ nào?

Chỗ nào, thân thế nào?

Thế nào tới thắng tứ,

Nhân gì được thần thông?

Và tam-muội tự tại?

Thế nào tâm tam-muội?

Tối thắng vì con nói?

Tám câu này đặc biệt hỏi hành tướng của Tam thừa.

Nghĩa là hàng Tam thừa làm sao ra khỏi ba cõi? Đã ra khỏi ba cõi lại sanh về chỗ nào? Đã bỏ thân này lại thọ thân nào? Rốt ráo trụ chỗ nào? Tại sao gọi Bồ-tát là đệ tử Phật? Có gì lại nói có việc thần thông tam-muội? Chẳng biết tâm Tam-muội là tướng trạng nào?

  1. Thế nào tên là tạng?
  2. Thế nào ý và thức?
  3. Thế nào sanh và diệt?
  4. Thế nào thấy rồi hoàn?
  5. Thế nào là chứng tánh?
  6. Phỉ chúng và tam tạng?
  7. Thế nào kiến lập tướng?
  8. Và cùng nghĩa phi ngã?
  9. Thế nào không chúng sanh?
  10. Thế nào thế tục nói?
  11. Thế nào là đoạn kiến?
  12. Và thường kiến chẳng sanh?
  13. Thế nào Phật, ngoại đạo?
  14. Tướng ấy không trái khác
  15. Thế nào là đời vị lai?
  16. Có các thứ dị bộ?

Mười sáu câu này hỏi tổng quát tâm tánh là một mà tại sao cái thấy của chúng sanh khác nhau nhiều thứ.

Bốn câu đầu, nghĩa là Như Lai tạng tâm là một, tại sao lại gọi tên tạng thức, lại gọi tên ý và ý thức? Tại sao lại nói vọng kiến sanh diệt, lại nói tâm chẳng sanh diệt?

Thấy rồi hoàn (kiến dĩ hoàn), Ngụy dịch là đoạn các kiến chấp (đoạn sở kiến), Đường dịch là rút lui các kiến chấp (thoái chư kiến), đều là nghĩa chăng sanh diệt.

Kế đến hai câu (5,6) nghĩa là phàm thánh đồng có một tâm đây, thế tại sao lại nói bậc Tam thừa là chủng tánh, còn ngoại đạo xiển-đề là phi chủng tánh? Như vậy là nói tâm kia đều có hạn lượng ư? Kế đến ba câu (7,8,9) nghĩa là tâm đã vô tướng, nhân đâu mà lập tướng ngã nhân chúng sanh. Vì đâu lại nói không có tướng ngã nhân chúng sanh? Kế đến năm câu (10,11,12,13,14) nghĩa là phàm phu ngoại đạo trong ba cõi vì đâu khởi hai kiến chấp đoạn thường? Câu Thế tục nói tức là hai kiến chấp đoạn thường của phàm phu ngoại đạo. Lại như thế nào được chẳng sanh hai kiến? Thế nào được Phật và chúng sanh bình đẳng không hai? Kế hai câu (15,16) nghĩa là Phật đã có giáo pháp, sau Phật diệt độ lại có các thứ lại khởi các kiến chấp khác (các bộ phái)?

Thế nào không, nhân gì?

Thế nào sát-na hoại?

Thế nào thai tạng sanh?

Thế nào thể bất động?

Nhân gì như huyễn mộng?

Và thành Căn-thất-bà?

Thế gian như sóng nắng.

Và như trăng trong nước.

Nhân gì nói Giác chi?

Cùng với Bồ-đề phần?

Thế nào quốc độ loạn?

Thế nào khỏi Hữu kiến?

Mười hai câu này là hỏi chung thế giới chúng sanh đều là pháp hữu tướng, nhân gì mà có sanh diệt, bất sanh diệt, thường với vô thường, chơn vọng chẳng đồng vậy.

Hai câu đầu, bản Ngụy dịch: Thế nào gọi là không, thế nào niệm chẳng dừng? Đây là hỏi thế giới y báo vì sao mà có thành, trụ, hoại, không; riêng đưa lên hoại, không mà gồm thành, trụ.

Câu “Thế nào thai tạng sanh” hỏi chúng sanh, chánh báo thế nào mà có sanh tử trôi lăn; nếu sanh đẻ thâu nhiếp tử vậy.

Câu “Thế nào thể bất động” nghĩa bao quát ở trên là hiện thấy chúng sanh thế gian có biến đổi vô thường vì sao lại nói thường trụ bất động.

Chữ “thể” là chỉ thế gian hữu tình và vô tình.

Bốn câu kế tự “Nhân gì như huyễn mộng”, bản Đường dịch: “Thế nào các thế gian, như huyễn lại như mộng…” ý muốn nói rằng, chúng sanh thế giới, các pháp hữu vi hiện nay thật có, vì sao nói như huyễn… chẳng thật? Hai câu “Nhân gì nói Giác chi cùng với Bồ-đề phần” nghĩa thế nào là giác ngộ các pháp thế gian chẳng thật thường thì thường trụ, ấy là chánh trí. Giác chi, Bồ-đề chỉ chung chánh trí. Hai câu “Thế nào quốc độ loạn, thế nào khỏi hữu kiến”, nghĩa là thế nào thấy các pháp thế gian là thật có vô thường, gọi là hữu kiến. Loạn là sanh diệt không dừng, hữu kiến là vọng tưởng phân biệt.

Trên đây hỏi chung về danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí.

Dưới hỏi “như như”.

Thế nào chẳng sanh diệt?

Thế nào hoa hư không?

Thế nào giác thế gian?

Thế nào lìa văn tự?

Lìa vọng tưởng là ai?

Thế nào thị hư không?

Sáu câu này hỏi về như như.

Bản Đường dịch: Thế nào biết thế gian. Thế nào lìa văn tự. Thế nào như không hoa. Chẳng sanh cũng chẳnh diệt.

Ý nói rằng thế nào ngộ được các pháp sanh diệt của thế gian đương thể là như như? Lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh tự, như hoa đốm trong hư không, chẳng sanh chẳng diệt, xa lìa mọi vọng tưởng phân biệt, cùng như hư không, tức là chân như vậy.

Trên hỏi chung tướng sanh khởi của năm pháp, ba tự tánh.

Sau đây hỏi về tướng sai biệt.

Như thật có mấy thứ?

Mấy tánh Ba-la-mật?

Nhân gì qua các địa?

Ai đến vô sở thọ?

Những gì hai vô ngã?

Thế nào nhĩ diệm tịnh?

Các trí có mấy thứ?

Mấy giới chúng sanh tánh?

Tám câu này riêng hỏi tướng sai biệt của chánh trí như như.

Bốn câu đầu nói rằng mê thật chân như là một, vì sao lại có đốn tiệm tu chứng không đồng, nên nói: “Như thật có mấy thứ?” Mấy tánh Ba-la-mật là nhân hạnh sai khác. Các địa nghĩa là giai cấp địa vị. Độ là vượt qua; nghĩa là nhân gì được chóng vượt các địa. Đến vô sở thọ, là hỏi về Phật địa rốt ráo.

Bốn câu sau từ “Những gì…” là hỏi sai biệt của chánh trí. Hai ngã 9 là phiền não chướng, nhĩ diệm tức sở tri chướng.

Ngài Thật-xoa nói: “Thế nào sở tri được thanh tịnh,” bởi câu Hai vô ngã, Tịnh sở tri là dùng chánh trí phá hai chướng. Chánh trí đã là một, vì sao lại có theo căn cơ trao pháp, nên hỏi Trí có bao nhiêu thứ. Chúng sanh căn tánh chẳng phải một, có bao nhiêu cách dạy răn?

Từ câu hỏi đầu đến đây, căn cứ chung trên nguồn chân nhất tâm, đứng về mặt mê ngộ đối đãi mà có năm pháp: Danh, tướng, vọng tưởng, chánh trí, như như, sai biệt không đồng; để hiển bày tướng nhân quả y báo chánh báo trong mười giới. Ý hiển bày không lìa nhất tâm mà đều trở về như như chánh trí.

Sau đây từ “Ai sanh các bảo tánh” trở xuống cho đến hết câu hỏi, chỉ hỏi các pháp: danh, tướng, vọng tưởng, duyên khởi, thành phẩm, y chánh, đại tiểu, nhiễm tịnh, tánh niệm tánh dục, âm thanh, sắc tướng, các thứ sai biệt chẳng đồng.

Ai sanh các bảo tánh?

Châu ma-ni v.v…

Ai sanh các ngôn ngữ?

Các thứ tánh chúng sanh.

Minh xứ và kỹ thuật

Ai là người hiển bày?

Minh xứ kỹ thuật là hỏi về Ngũ minh. Học thuật ở Ấn Độ, lấy đây làm tiêu chuẩn, cho nên có luận Ngũ minh:

  1. Thanh minh: Học về ngôn ngữ, văn tự cổ kim.
  2. Công xảo minh: Máy móc kỹ thuật, âm dương lịch số.
  3. Y phương minh: Chú thuật tà, thuốc men, luyện đá, luyện kim, luyện ngải.
  4. Nhân minh: Khảo định tà chánh, xét nghiệm chân nguy.
  5. Nội minh: Nghiên cứu bàn luận diệu lý nhân quả của năm thừa.

Ba cái trước là học vấn kỹ thuật bên ngoài, hai cái sau là nội giáo.

Già-đà có mấy thứ? Trường tụng và đoản cú.

Thành ra bao nhiêu thứ? Thế nào gọi là luận? 10

Thế nào sanh ăn uống? Và sanh các ái dục?

Thế nào gọi là vua? Chuyển luân và Tiểu vương?

Thế nào gọi hủ quốc? Chủ thiên có mấy loại?

Thế nào gọi là địa? Tinh tú và trời trăng?

Bậc tu hành giải thoát Là có bao nhiêu bậc?

Đệ tử có mấy loại? Thế nào A-xà-lê?

Phật lại có bao nhiêu? Lại có mấy loại sanh?

Ma và các dị học. Kia mỗi thứ bao nhiêu?

Tự tánh cùng với tâm. Kia mỗi thứ mấy loại?

Thế nào thì thiết lượng? Xin bậc tới thẳng nói.

Trên đây đều là danh, tướng, vọng tưởng.

Bởi ngôn ngữ, ăn uống, ái dục, tâm tánh thuộc vọng tưởng; những điều còn lại thuộc danh tướng. Và lại hỏi “Nhân gì mà khởi” là đều hỏi về duyên khởi.

A-xà-lê Trung Hoa dịch là Quỹ phạm sư. Phật thì có pháp thân, báo thân, hóa thân nên hỏi Phật có bao nhiêu đời sống.

Thế nào hư không, gió, mây? 11 Thế nào niệm thông minh?²

Câu này nhân ở trước nói tâm tánh là một, vì sao có sự khác biệt giữa niệm và tuệ.

Thông minh tức là Huệ trong năm môn biệt cảnh. Cho nên bản dịch Ngụy “Nhân gì có điềm huệ”.

Bản dịch Đường nói “Niệm trí nhân gì mà có”. Đây cũng thuộc vọng tưởng.

Thế nào là rừng cây? Thế nào là cỏ rậm?

Thế nào voi, ngựa, nai? Thế nào mà bắt giữ?

Thế nào là nhỏ hẹp? Nhân gì mà nhỏ hẹp?

Thế nào lục tiết nhiếp? 12 Thế nào Nhất xiển-đề? 13

Nam nữ và chặng nam? Đây do thế nào sanh?

Thế nào tu hành thối? Thế nào tu hành sanh? 14

Thiền sư dùng pháp gì? Kiến lập những người nào? 15

Chúng sanh sanh các nẻo, Tướng gì, tướng loại gì?

Thế nào là tài phủ? Nhân gì đến tài phủ?

Thế nào là Thích chủng? Nhân gì có Thích chúng?

Thế nào dòng Cam-giá? Xin bậc Vô thượng nói.

Dòng Cam-giá là dòng Cồ-đàm. Bản chú xưa dẫn kinh Bổn Hạnh nói: Hồi kiếp ban sơ, vua Đại Mao Thảo tu thành vua tiên, bị thợ săn bắn nhầm, máu chảy trên đất sanh ra hai cây mía, hấp thụ ánh mặt trời bèn tách ra, một thành đồng nam một thành đồng nữ. Xem thấy tướng lập dòng nam tên Thiện Sanh, liền làm lễ quán lãnh làm vua dòng Cam-giá, đồng nữ tên Thiện Hiền là vương phi thứ nhất. Dòng họ Thích, Cồ-đàm tức là dòng dõi này. Đại Huệ hỏi dòng Cam-giá nhân gì mà có.

Thế nào là tiên Trường Khổ?

Kia dạy bảo thế nào? 16

Như Lai vì sao hiện,

Tất cả thời nơi chốn?

Các thứ danh sắc loại.

Tới thẳng tứ vây quanh.

Vì sao không ánh mặt trời?

Vì sao cầm ăn thịt?

Ẩn các thứ môn thịt.

Nhân gì mà ăn thịt?

Từ câu “Ai sanh các bảo tánh” đến đây là hỏi sự bất đồng của vạn vật trong trời đất; thánh phàm khác biệt, tâm hành dục không phải một, đây đều do nhân gì mà có?

Lời hỏi không thứ lớp, nhưng ý không ngoài việc này. Nếu xem phẩm Vấn Minh trong Hoa Nghiêm, ắt là biết quy thú trong đây vậy.

Thế nào hình nhật nguyệt?

Tu-di và Liên hoa?

Cõi thẳng tướng sú tứ

Thế giới nghiêng, đứng, úp

Như vòng trời Đế Thích

Hoặc các thứ trân bảo

Không hầu, trống lưng eo

Hình trạng các thứ hoa

Hoặc là sáng trời trăng

Như thế nhiều vô lượng

Đây là hỏi cõi Phật an lập hình trạng chẳng đồng. Phẩm Hoa Tạng thế giới diễn tả điều này rất rộng, cho nên kết luận nói: “Như thế nhiều vô lượng.” Nhân-đà-la (Indra) Trung Hoa dịch là lưới, lúc lưới đế vương, nghĩa là cung điện Đế-thích có lưới bằng các trân bảo, tủy trăm ngàn lớp mà không chướng ngại nhau, dung nhiếp xen ẩn, ánh sáng giao thoa la liệt. Thế giới cũng như vậy.

Thế nào là Hóa Phật?

Thế nào là Báo Phật?

Thế nào Như như Phật?

Thế nào Trí huệ Phật?

Đây hỏi Phật chỉ là Nhất chân, vì sao mà danh nghĩa chẳng đồng?

Tùy cơ ứng hiện khắp nơi là Hóa Phật. Báo đáp nhân xưa là Báo Phật. Thể tánh không hai là Chân như Phật. Bốn giác hiển chiếu là Trí huệ Phật, nhưng thể tánh như trí huệ là Pháp thân, danh nghĩa tuy bốn chủng đều bá thân.

Thế nào ở Dục giới,

Không thành Đẳng chánh giác?

Cớ sao Sắc cứu cánh,

Lìa dục được Bồ-đề?

Phật đã hiện thân cùng chịu khổ như dân chúng, vì sao không ở Dục giới thành Phật mà ở cõi trời Hữu đảnh, chỗ ly dục mà thành đạo Bồ-đề?

Thiện Thệ nhập Niết-bàn

Ai sẽ giữ chánh pháp?

Thiên sư trụ bao lâu?! 17

Chánh pháp trụ mấy năm?

Đây hỏi bậc pháp chủ trụ thế lâu mau, và sau khi diệt độ ai sẽ giữ gìn chánh pháp. Giữ chánh pháp là lưu truyền chánh pháp nhân tạng.

Tát-đàm cùng với kiến.

Mỗi thứ lại có mấy?

Tỳ-ni, Phần Tỳ-kheo.

Thế nào? Nhân duyên gì?

Đây là hỏi sự sai biệt của pháp.

Tát-đàm, Trung Hoa và Ấn Độ đều nêu, Tát là biện, Đàm Trung Hoa dịch là Thí, nghĩa là Phật dùng các pháp cho khắp chúng sanh, nên gọi là Tát-đàm. Bốn pháp là: Pháp nhân, đối trị, đệ nhất nghĩa, thế tục. Tông Chỉ Quán nói rõ. Kiến là căn cơ được rõ ràng. Mỗi căn cơ lại có mấy loại. Tỳ-ni, Trung Hoa dịch là Luật. Tỳ-kheo Phần là 250 giới Tỳ-kheo. Hỏi Tỳ-ni như thế nào. Vì sao lại nói Phần Tỳ-kheo?

Các Tối thẳng tứ kia.

Duyên giác và Thanh văn.

Nhân gì trăm biến dị;

Thế nào trăm vô thọ?

Thế nào thế tục thông?

Thế nào xuất thế gian?

Thế nào là Thất địa?

Cúi xin vì giảng nói.

Đây hỏi về người và pháp trong ba thừa nhân gì mà sai biệt.

Đường dịch:

Tất cả các Phật tử

Độc giác và Thanh văn

thế nào chuyển sở y

Thế nào được thế thông

Thế nào được xuất thế

Lại do vì nhân gì

Tâm trụ trong Thất địa

Căn cứ theo đó thì biết hai câu ‘Trăm biến dị, trăm vô thọ’ nghĩa là Bồ-tát Sơ địa nhân gì có thể hiện thân ở trăm cõi Phật, được trăm món Tam muội. Vô thọ tức là Tam-muội vậy. Thế tục thông nghĩa là bậc thánh Ngũ địa nhân gì mà được thông đạt thế tục vào đời lợi sanh. Thất địa là Viễn hành địa, gọi là xuất thế gian.

Tăng-già có mấy thứ?

Thế nào là hoại Tăng?

Thế nào luận y phương?

Lại là nhân duyên gì?

Đây là hỏi sự sai biệt của Tăng-già, và pháp ứng cơ không phải một.

Hoại Tăng là người không giữ đủ giới. Luận y phương chẳng phải y phương của thế tục, mà nói Phật là bậc y vương của ba cõi, lời thuyết pháp tùy cơ lập bày như tùy bệnh cho thuốc nên gọi là luận y phương. Kinh Đại Bát Niết Bàn có thầy thuốc cũ, thầy thuốc mới. Pháp Hoa có dụ về thầy thuốc. Đường dịch: “Thuyết giảng rộng luận y phương” là biết đây nói về Phật pháp. Từ câu “Thế nào là Hóa Phật” đến đây là hỏi chung Tam bảo nhân gì mà có sai biệt.

Cớ sao Đại Mâu-ni

Ca-diếp, Câu-lưu-tôn

Xuống nói lời thế này

Câu-na-hàm là ta?

Đây hỏi nhân trước nói Phật có tứ đẳng danh nghĩa không đồng, nhân gì lại nói Ca-diếp và các Phật là ta không khác?

Cớ gì nói đoạn, thường

Sao không ở mọi thời

Mà lại vì chúng sanh

Và cùng ngã vô ngã

Diễn nói nghĩa chân thật

Phân biệt nói tâm lượng?

Đây là nhân trước nói về pháp sai biệt, nên lại hỏi về sự bất đồng giữa tà chánh, quyền thật. Doanh thường-ngã là tà tông ngoại đạo. Vô ngã là chánh pháp của Phật. Tâm lượng là tâm sở vọng tưởng phân biệt. Ý rằng vì sao nói đoạn, thường và ngã là tà tông, vì sao nói vô ngã là chánh pháp. Nhưng vô ngã đã là chân thật, vì sao không trước sau chi nói về pháp chân thật đó, mà lại vì chúng sanh nói pháp tâm sở vọng tưởng không thật?

Nhân gì rừng nam nữ

Ha-lê, A-ma-lặc?

Đây hỏi về sự khác biệt của rừng rậm, cây trái.

Rừng nam nữ, cũng gọi rừng Thi-đà. Trái nó như hình người nam người nữ. Khi chín thì nhan sắc đẹp đẽ, chẳng bao lâu rụng, hình trạng như tử thi, hôi thối khó ngửi. Các đệ tử Phật hay vào rừng này để tu quán bất tịnh. Đại Huệ hỏi rừng này nhân đâu mà có. Ha-lê, A-ma-lặc là tên hai thứ quả đều có thể làm thuốc.

Xưa gọi là Ha-lê-lặc, nay gọi là Ha-lê-hăng-kê. Trung Hoa dịch “Từ trời đắc biệt đến”. A-ma-lặc, thật ra như hồ đào. Ý nói rằng cùng một loại trái cây, vì sao lại như hình nam nữ.

Kê-la và Thiết-vi

Vô lượng bảo trang nghiêm

Kim Cang thảy các núi

Tiên Đạt-bà sung mãn

Đây hỏi về chúng Bát bộ vì sao không ở nhân gian thiên thượng mà ở trong núi Thiết-vi bảy lớp vàng.

Đường dịch: “Tiên nhân Càn-thát-bà, tất cả đều sung mãn. Đây đều nhân duyên gì. Nguyện Phật vì con nói”.

Những câu hỏi trên đây của Đại Huệ trừ chỗ chấp, chỉ lấy những chữ vân hà, hà nhân, hà cố, hà đẳng, thuyết làm nghĩa thì có 130 câu hơn. Ý nghĩa trong đó không ra ngoài mười cõi bốn môn 18. Mà lời đáp của Phật, chỉ nhất tâm chân như thôi một pháp chẳng lập cho nên mỗi mỗi đều nói “phi”. Nếu y sanh diệt môn duy thức kiến lập thời y chí toàn kinh đều là câu đáp riêng cho lời hỏi này thôi. Tuy kinh truyền sang chữ Hán, nhưng lời văn trong bốn quyển này nói về năm pháp, ba tự tánh, tâm thiện thức, hai vô ngã, chỉ thú khai hợp danh nghĩa của bốn môn này đã đủ. Người đọc xem văn hiểu ý, tự sẽ chứng đắc.

  • Sau đây Thế Tôn lập lại mà đáp. Trước lập lại sau đáp.

C₂ – Đáp D₁ – Lặp lại

Vô Thượng Thế gian giải

Các độ môn Đại thừa

Hỏi rất tốt, lành thay!

Nay ta sẽ thứ lớp

Nghe lời kệ kia nói

Chư Phật tâm đệ nhất

Đại Huệ khéo lắng nghe

Đáp theo như lời nói

Đây là lời người kết tập trình bày và lời hứa khả khen ngợi của đức Phật.

Một bài kệ đầu, bản dịch Đường nói: “Lúc bấy giờ đức Thế Tôn nghe chỗ thưa thỉnh về pháp môn tối thượng Đại thừa Phật tâm vi diệu”.

Về chỗ hỏi của Đại Huệ là tướng sai biệt y báo chánh báo trong mười cõi, chính là cảnh giới phân biệt vọng kiến của hàng Tam thừa, phàm phu, ngoại đạo. Thật là Bồ-tát Đại Huệ nhân đó mà khởi nghi. Bởi không biết các pháp như thế nhân gì mà có, cho nên đưa ra những câu hỏi này. Song người kết tập liên chỉ là pháp môn tối thượng Phật tâm vi diệu. Vì sao? Kinh Kim Cang Bát-Nhã nói: Tất cả thiện tâm đều do pháp vô vi mà có sai biệt, huống chi chúng sanh mười giới. Nghĩa là tất cả phân biệt đều là phân biệt tự tâm, nếu phân biệt chẳng sanh ngay đó tức là tự giác thánh trí của chư Phật. Cho nên những câu hỏi nhân quả tà chánh, y báo chánh báo của thánh phàm, tự tánh thường trụ, đều tức là Phật tâm vi diệu, chẳng phải con mắt trí thầy rõ thì làm sao nêu được chỗ này? Thế nên đặt vào phần mở đầu như vậy.

Sanh cùng với bất sanh

Niết-bàn, không, sát-na

Tiến đến vô tự tánh

Đây là Thế Tôn nắm tổng quát ý nghĩa các câu hỏi của Đại Huệ.

Nghĩa là tuy hỏi nhiều thứ, không ra ngoài sanh và vô sanh, Niết-bàn, không tướng vậy. Sát-na là sanh diệt lưu chuyển.

Tiến đến là cứu cánh. Đường dịch: “Hoặc sanh hoặc chẳng sanh. Niết-bàn và không tướng. Lưu chuyển không tự tánh”.

Nghĩa là thế gian, xuất thế gian này đều là pháp vọng kiến lưu chuyển sanh diệt, mỗi mỗi rốt ráo vốn không tự tánh.

Đây là lặp lại tổng quát cương lãnh của ý ấy mà thầm đáp rồi vậy. Có thể thấy nghĩa này ở lời chú trước. Vì sao sau đây lại mỗi mỗi đều tóm thuật lời hỏi của Đại Huệ?

Do lời hỏi trước hoặc so lược hoặc thiếu sót. Thế Tôn bổ túc mà nêu ra, cũng là xen nhau phát minh. Nhưng lời đức Phật tuy tiện nên lẫn lộn không theo loại, mà ý ấy tự trọn vẹn.

Chư Phật, Ba-la-mật. Phật tử và Thanh văn. Duyên giác các ngoại đạo. Và cùng Vô sắc hạnh. Các thứ việc như thế.

Đây là tóm gọn những câu hỏi của Đại Huệ.

Nghĩa là tuy hỏi nhiều không ngoài nhân quả của nhân pháp trong mười cõi. Phật, Phật tử, Thanh văn, Duyên giác là tự thánh. Vô sắc gồm sáu trời thiền đạo.

Ngoại đạo là gồm hết người và tam đồ, vì tà hạnh của ngoại đạo là nhân của tam đồ, đây đều là người. Ba-la-mật là pháp của tự thánh. Vô sắc hạnh là gồm cả pháp của ngoại đạo và lục phàm. Nhân quả, y báo, chánh báo đều đầy đủ cho nên nói “Các thứ việc như thế”. Ý rằng chỗ hỏi của Đại Huệ không ngoài đây. Phần sau mỗi mỗi thuật lại lời kia.

Núi Tu-di, biển cả, Châu, đảo, cõi nước, đất, Tinh tú và trời trăng. Ngoại đạo, thiên, tu-la.

Đây là thuộc về câu hỏi chư thiên có mấy thứ, thể nào gọi là địa, tinh tú và trăng sao, lặp lại ý chỉ ba cõi sáu phàm.

Giải thoát tự tại thông, Lực, thiền, tam-ma-đề, Định và như ý túc, Giác chi và đạo phẩm Các thiền định vô lượng.

Đây thuộc về câu hỏi Thế nào nói Giác chi với Bồ-đề phần. Xen vào rộng thêm ba mươi bảy phẩm trợ đạo thuộc pháp tự thánh.

Các ấm thân qua lại Chánh thọ, Diệt tận định

Thuộc câu Và cùng diệt chánh thọ hai câu.

Tam-muội khởi tâm nói

Thuộc câu Nhân gì từ định giác bốn câu.

Tâm, ý và cùng thức, Pháp vô ngã có năm, Tự tánh tướng, chỗ tướng, Và cùng hiện hai chấp, Thừa và các chúng tánh.

Thuộc về câu Thế nào gọi là tạng đến nghĩa phi ngã, tám câu tổng hợp lại bốn môn.

Vàng bạc, ma-ni, v.v…

Thuộc về câu Ai sanh các bảo tánh.

Nhất-xiển-đề đại chúng

Thuộc về câu Thế nào nhất- xiển-đề. Song, đại chúng là chỗ không hỏi, bởi ý Thế Tôn chỉ cho xiển-đề ngoại đạo chấp đại chúng là sanh nhân, không phải đặc biệt nói về tứ đại.

Hoang loạn và nhất Phật. Trí, nhĩ diệm, đắc, hướng.

Hoang loạn thuộc về câu Thế nào quốc độ loạn. Nhất Phật thuộc về câu Ca-diếp… là ta. Trí, nhĩ diệm thuộc hai câu là Nhĩ diệm tịnh. Đắc, hướng thuộc câu Giải thoát tu hành.

Chúng sanh có không có Thuộc câu Và cùng ngã vô ngã.

Voi ngựa các cầm thú, Làm sao mà bắt lấy.

Thuộc câu Thế nào voi ngựa nai, làm sao mà bắt giữ.

Thí, nhân thành Tất-đàn, Và cùng tác sở tác.

Thuộc câu Tất-đàn và kiến chấp, Đường dịch là “Thế nào nhân, thí dụ, tương ưng thành Tất-đàn”. Nghĩa là tứ Tất-đàn đều nhân thí dụ mà thành cho nên gồm ý mà nói lược; Tác, sở tác đều thuộc vọng kiến.

Tòng lâm, mê hoặc, thông, Tâm lượng chẳng hiện hữu.

Câu trên thuộc câu Thế nào thế tục thông nghĩa là tâm tướng tà kiến của chúng sanh dày đặc như rừng. Câu sau thuộc về hỏi Thế nào xuất thế gian. Bản dịch…

Đường: “Các rừng cùng với mê hoặc, lý chân thật như thế, chỉ có tâm không cảnh giới”. Bản dịch Ngụy: “Tưởng mê hoặc như thật, chỉ là tâm, không có cảnh giới”.

Đây là trùng lặp để nêu ra ý nghĩa vậy.

Các địa không đến nhau Thuộc câu Nhân gì qua các địa.

Trăm biển trăm vô thọ, Luận y phương công xảo, Kỹ thuật các minh xứ, Theo văn có thể biết.

Sau đây từ Các núi Tu-di, đất cho đến mao không mi mao… là chỗ Đại Huệ hỏi không tới, đức Thế Tôn chỉ ra để nêu lên.

Các núi, Tu-di, dạ, Chúng sanh thượng trung hạ, Mỗi thân mấy vi trần. Mỗi cõi có mấy trần, Mỗi cung số có mấy? Xạ bộ Câu-lư-xá, Nửa Do-diên, Do-diên, Thố mao, song trần, rận. Dương mao, khoáng mạch trần

Bảy cực vi trần thành một song trần 19, bảy song trần thành một thố mao đầu trần 20, thố mao đầu trần thành một dương mao đầu trần 21, bảy dương mao đầu trần thành một ngưu mao đầu trần 22. bảy ngưu mao đầu trần thành một con rận, bảy con rận thành một con chí, bảy con chí thành một hạt cải, bảy hạt cải thành đại mạch, bảy đại mạch thành một lóng tay, bảy lóng tay thành nửa thước, hai nửa thước thành một thước, hai thước thành một khuỷu tay, bốn khuỷu tay thành một cung, năm cung thành một trượng, 20 trượng thành một tức, 80 tức thành một câu-lư-xá (Krosa), 80 câu-lư-xá thành một đo tuần, do diên là do tuần. Đây căn cứ lời chú xưa theo Phạn ngữ.

Bát-tha mấy khoáng mạch? Độc long, na-khư-lê, Cho đến tần-bà-la

A-la mấy khoáng mạch? Lặc-xoa và cử-lợi, Mỗi cái bao nhiêu số.

Bát-tha (Prastha) là một thăng, a-la là một đấu, độc long (Drona) là một hộc (10 đấu = 1 hộc), na-giả-lợi (Khsa) là 10 hộc, lặc-xoa (Laksh) là một vạn, cử lợi (Koti) là 1 ức, tần-bà-la (Vinivana) là một triệu, nghĩa là bao nhiêu khoáng mạch thành một thăng, bao nhiêu khoáng mạch thành một đấu, mấy thứ kia cũng vậy.

Có bao nhiêu A-nậu, Gọi là xá-lê-sa-bà. Bao nhiêu xá-lê-sa-bà, Gọi là một lại-đề; Bao nhiêu lại-đề là một ma-sa, Bao nhiêu ma-sa thành đa-na, Bao nhiêu đa-na thành ca-lê-sa-na. Bao nhiêu ca-lê-sa-na thành một ba-la. Tưởng tích tụ như thế. Mấy ba-la một di-lậu?

A-nậu cũng là trần (bụi), xá-lê-sa-bà là hạt cải, lại-đề là hạt cỏ, ma-sa là hạt đậu, đà-na (Dharan) là thù (24 thù = 1 lạng), ca-lê-sa-na (Karska) là lạng, ba-la (Pala) là cân, di-lậu là núi Tu-di. Nghĩa là bao nhiêu ký-lô hạt bụi thành núi Tu-di. Bản Đường: “Bao nhiêu ký-lô thành Tu-di”. Những điều này căn cứ chú xưa.

Những thứ đó đáng hỏi, Thanh văn, Bích chi Phật, Mỗi thứ bao nhiêu số Hỏa diệm mấy a-nậu, Mỗi cặn mấy a-nậu. Có bao nhiêu a-nậu.

Vì sao hỏi việc khác. Phật và tôi thắng trí Sao không hỏi chỗ này? Gió có mấy a-nậu Lỗ chân lông, lông mày.

Từ Các núi Tu-di, đất đai đến đây cộng có 38 câu, so sánh ra 32 việc đều là chỗ Đại Huệ hỏi chưa tới.

Cho nên Thế Tôn đặc biệt tiêu biểu để nêu ra, và trách tại sao không hỏi đó. Vì sao? Như các phẩm Hoa Nghiêm đều là do sức Phật gia bị cho Bồ-tát nói ra.

Đến như phẩm A-tăng-kỳ, là Phật đích thân nói. Vì đó là việc rất vi tế, chẳng phải bậc Nhất thể chúng trí thì không thể biết hết thấy hết, chẳng phải chỗ biết của Bồ-tát, không biết nên hỏi không tới. Nếu như không hỏi tới thì ngoài tâm có pháp du. Nên phải nêu riêng để hiển bày tự giác thánh trí, thấu triệt các pháp không sót.

Tin chắc rằng chỗ thấy biết của Phật, biết hết số giọt mưa trong cõi Diêm-phù-đề. Hiện tiện từng hạng gà công, hạc trắng qua đen đều biết rõ nguyên nhân. Nhưng núi Tu-di là chỉ sổ lược tướng chung của y báo, còn cung bộ, vị trần là tướng riêng. Hàng thánh nhân trong ba thừa thân có lớn nhỏ, thân là tướng chung của chánh báo, nhưng số lượng vị trần mao không là tướng riêng. Ý trách Đại Huệ chỉ biết tướng tổng quát của các pháp, không biết tướng riêng. Thế là chỉ biết tướng chung mà không đạt tứ tướng, đó là mê tự tâm hiện lượng lắm vậy. Cho nên dùng trí sâu xa vi tế để phát minh việc này.

Văn sau lại nêu câu hỏi Đại Huệ.

Vua Tự tại, hộ tài Thế nào vua thứ hộ, Nói rộng và nói hẹp Chúng sanh các thú dục, Thế nào rừng nam nữ, Thế nào như huyễn mộng, Thế nào núi, tiên, thiên, Giải thoát đến chỗ nào. Thế nào cảnh giới thiện, Thế nào không nhân tác Hữu nhân vô nhân tác

Vua Chuyển luân thánh đế Thế nào là giải thoát, Như lời hỏi của ông, Các thứ món ăn uống, Núi Kim Cang vững chắc, Dụ nai rừng khát ái Càn-thát-bà trang nghiêm 23 Ai cột, ai giải thoát Biến hóa và ngoại đạo, Thế nào như thật tác Và phi hữu vô nhân.

Chỗ xưa, bốn nhân đây thuộc về thế nào câu dị thuyết ở trên.

Thế nào hiện rồi diệt Thế nào tịnh các giác, Và chuyển các sở tác.

Thuộc về câu Thế nào tịnh niệm kia, thế nào niệm tạng trưởng.

Thuộc về thế nào thấy rồi hoàn. Thế nào các giác chuyển Thế nào đoạn các tưởng Phá ba cõi là ai. Thế nào không chúng sanh Thế nào thể tục nói.

Thế nào Tam-muội dậy, Chỗ nào, thân thế nào, Mà nói có tôi, ta.

Thuộc 4 câu thế nào kiến lập… Cuối xin rộng phân biệt. Hai bản dịch đều không có câu này.

Chỗ hỏi tướng thế nào, Và chỗ hỏi phi ngã.

Đây cũng còn thuộc nghĩa bốn câu kiến lập.

Thế nào là thai tạng, Và các thứ thân khác

Thuộc câu Các thứ tướng sắc thân.

Thế nào đoạn thường kiến Thế nào tâm được định

Thuộc câu Thế nào tâm tam-muội.

Ngôn thuyết và các trí, Giới, chúng tánh, Phật tử

Thuộc hai câu Ai sanh các ngôn ngữ, và hai câu Các trí có mấy thứ, bao nhiêu giới, tánh chúng sanh.

Thế nào thành và luận Thuộc câu Thành có mấy thứ, thế nào gọi là luận.

Thế nào thấy đệ tử Mỗi mỗi các chúng sanh Đầy lại như thế nào Thế nào là ăn uống.

Thuộc hai câu Đệ tử có mấy thứ, thế nào A-xà-lê. Ba câu sau đều thuộc về ý của các câu nam nữ và bất nam, và ý bốn câu chúng sanh sanh các đường.

Thông minh, ma, thi thiết Thuộc sáu câu Ma và các dị học trở xuống, và câu Thế nào niệm thông minh.

Thế nào cây cất dựng (dây leo) Thuộc hai câu Thế nào là rừng cây, thế nào là cỏ rậm.

Chỗ hỏi Tối thắng tử Thế nào các cõi nước Thuộc câu Hình tướng các cõi nước, đây cũng thuộc về ý của câu Cớ gì sát độ hóa.

Tiên nhân trường khổ hạnh Đây thuộc hai câu Thế nào trường khổ tiên.

Thế nào là tộc tánh Đây thuộc bốn câu Thế nào là Thích chúng.

Theo thầy nào thọ học Thuộc hai câu Thiên sư dùng pháp gì.

Thế nào là nhỏ hẹp Thế nào người tu hành

Hai câu này thuộc câu Thế nào tu hành thoái.

Dục giới sao không giác A-ca-ni-tra thành Đây thuộc bốn câu Thế nào ở Dục giới không thành Đẳng chánh giác, A-ca-ni-tra Trung Hoa dịch là trời Sắc cứu cánh.

Thế nào tục thần thông Thuộc câu Thế nào thế tục thông.

Thế nào là Tỳ-kheo Thuộc hai câu Thế nào Tỳ-ni, Tỳ-kheo.

Thế nào là hóa Phật, Thế nào là báo Phật Thế nào Phật như như Phật bình đẳng trí huệ Thế nào là chúng tăng.

Thuộc câu Tăng-già có mấy bậc.

Phật tử hỏi như thế Đàn, trống eo lưng, hoa Cõi nước lịa ánh sáng.

Thuộc mười câu Thế nào hình nhật nguyệt trở xuống.

Tám địa đó có bảy Thuộc câu Thế nào là Thất địa.

Chỗ hỏi đều như thật Câu này và nhiều câu kia¹ Phật tử chớ cẩn hỏi Mỗi mỗi tướng tương ưng Xa lìa các lỗi chấp.

Năm câu này là khen lời hỏi của Đại Huệ xứng lý và không lỗi.

Nhưng ý hỏi của Đại Huệ có thứ lớp có chủ định, mà Thế Tôn lập lại, đại khái tổng quát những lời ấy, không theo thứ tự, và lập lại cũng không hết. Nên kết luận rằng “Đây và các câu khác”, ý nói rằng chỗ hỏi của Phật tử mỗi mỗi đều cùng thật lý tương ưng, xa lìa các lỗi kiến chấp. Nhưng tuy thế mà pháp ly ngôn thuyết, nay ở chỗ không lời bày lời cho nên câu kết sau đây nói:

Tất-đàn lìa ngôn thuyết Ta nay sẽ hiển bày Thứ lớp dựng lập câu Phật tử khéo lóng nghe Trăm lẻ tám câu trên Như chỗ chư Phật nói.

Sáu câu này là kết luận lập lại nghĩa câu hỏi, hứa sẽ nói và dặn lóng nghe, mở đường cho ý đáp ở sau.

Nghĩa là chỗ hỏi của Đại Huệ tuy xứng lý không lỗi, nhưng pháp vốn ly ngôn, nay ở chỗ không ngôn thuyết chỉ bày ngôn thuyết cho nên thứ lớp dựng lập lại. Và lại nghĩa của trăm lẻ tám câu vừa rồi, nếu như chỗ Phật nói thì mỗi mỗi đều phi. Cho nên hai câu này là kết luận phần trên, mở đầu phần dưới mà nghĩa đi suốt tới về sau để tiếp tục.

Song 108 câu, bản Ngụy gọi là 108 kiến. Bản đầu Đại Huệ nói: “Nay dùng nghĩa 108 ngưỡng khải bậc Thượng tối tôn”.

Và khảo xét chỗ hỏi có hơn 190 câu, nếu chỉ lấy các câu văn hà, hà nhân, hà cố, hà đẳng, thủy, các loại câu như vậy mà làm nghĩa hỏi, ắt có hơn 130 câu.

Thế Tôn thêm vào chỗ Đại Huệ hỏi thiếu, là 32 câu, đến đó cũng còn nói “108 câu trên như lời nói của Phật” thì quả là nhất định cuộc hạn 108 câu ư?

Mà người giảng thuyết căn cứ chỗ sau này đức Thế Tôn tự phân số câu chỉ có 104, thiếu bốn câu. Nếu chắc chắn dùng 108 câu làm định kiến há chẳng bị lỗi Khắc thuyền tìm kiếm sao? Đó là bị một chữ “câu” làm ngại vậy. Đâu không xem Đại Huệ nói 108 nghĩa, Lưu Chi nói 108 kiến, nếu xem hai chữ nghĩa, kiến thì có thể gọi rằng đầy đủ mạch thông suốt vậy.

Nếu như số câu khó hợp với số 108 thì theo ngụ ý của tôi căn cứ vào các pháp trong ba cõi khởi lên hữu vô từ cứ làm chuẩn, về mặt Phật giáo chỉ dạy không ra ngoài tứ cú, phía ngoại đạo chấp cứng không ra khỏi tứ cú, như vậy chánh tà cộng lại có tám. Kiến chấp phân biệt có tám, cảnh bị chấp có 100¹, cho nên nói 108 kiến chấp. Văn sau kinh nói: Như Lai nói pháp lìa bốn cái như thế, nghĩa là một, khác, có, không… lại nói “Vì sạch hai thứ chướng, thí như thương chủ, thứ lớp dựng lập 108 câu vô sở hữu”. Thế nên Thế Tôn đáp rằng tất cả đều phi. Vì khéo phân biệt các thừa và tướng các địa, cho nên sau đây căn cứ trên phần sanh diệt mà dựng lập có ngôn thuyết, vì vậy mỗi mỗi đáp riêng. Chỗ nói ra cũng không ngoài phá bốn két chấp này.

  • Trên đã tóm lập lại chỗ hỏi.

  • Sau đây là trước đứng về Chân như môn mà đáp.

¹ Cảnh bị chấp là chỉ cho 10 cõi thánh phàm, mỗi cõi có đủ 10; 10×10 = 100.

D₂ – Đáp Câu bất sanh câu sanh¹ Câu thường câu vô thường Câu tướng câu vô tướng².

Đây là đứng về phương diện tâm chân như mà đáp.

Đại Huệ hỏi nghĩa tuy nhiều nhưng không ngoài pháp sanh và vô sanh, thường và vô thường, tướng và vô tướng.

Cho nên Thế Tôn đã lặp lại lời hỏi rồi lại tổng kết các nghĩa này mà phá rằng: 108 câu như trên, nếu theo chư Phật nói về nghĩa bất sanh tức ở đây nói là pháp sanh, vì sanh vốn vô sanh.

Chư Phật nói nghĩa chân thường tức ở đây nói là vô thường, vì các pháp dương thể chân thường. Nói về tướng là các pháp vốn không tự tướng. Đây là thuận theo hai bản dịch, dùng câu sanh làm đầu để giải thích. Nếu căn cứ vào kinh này thì đem câu bất sanh làm đầu để giải, ý rằng chư Phật nói chân thường vô sanh không cho khởi kiến chấp, nên văn sau nói: “Tất cả pháp chẳng sanh, không nên lập tông” ý rằng ông vừa khởi kiến chấp bất sanh, đã sớm rơi vào pháp sanh, vừa khởi kiến chấp thường, sớm rơi vào vô thường.

Vì sao? Vì trong cảnh giới chân như không cho nghĩ nghị, đấy tâm tức lỗi, động niệm tức trái.

Vì tướng vốn vô tướng, cho nên nói câu bất sanh câu sanh… Từ đây trở đi, phàm chỗ phân biệt, đều chẳng tương ưng với lý chân như thật tướng, cho nên mỗi mỗi Phật đều bác bỏ mà nói phi.

Vĩnh Gia nói: “Tất cả câu số, câu chẳng phải số, cũng Linh giác tạ nào dính dáng, chẳng như tam giới thấy tam giới, chẳng thật chẳng hư, chẳng như chẳng dị”. Đây chính là cảnh giới tự giác thánh trí của Phật chứng, nên chẳng phải chỗ vọng tưởng phân biệt có thể đến. Trong tông môn nói: “Ba câu rõ một câu, một câu rõ ba câu, ba một không quan hệ nhau, rõ ràng hướng đường trước”. Hiểu rõ điều này mới cho phép xem Lăng-già.

Câu trụ dị, câu chẳng trụ dị. Câu sát-na, câu chẳng sát-na. Câu tự tánh, câu tự tánh chẳng tự tánh. Câu không, câu bất không¹.

Đây cũng ba câu trước là lời Phật tự dẹp bỏ.

Do ở trước, phần đầu đoạn văn lặp lại nói: “Sanh với bất sanh; Niết-bàn, không, sát-na; tiến đến vô tự tánh”. Ý Thế Tôn rằng: Trước nhân Đại Huệ chấp có thế gian, xuất thế gian; sanh trụ dị diệt mới hỏi, cho nên ta đem cú nghĩa này phá tình chấp kia, chẳng phải thật pháp. Vì trong lý chân như vốn vô ngôn thuyết, nên đáp: “Đây cũng đều phi”. Nghĩa là chẳng những không có sanh, mà trụ dị diệt đều bất khả đắc. Sát-na là…

¹ Bản Ngụy: Ly tự tánh kiến, chẳng ly tự tánh kiến. Không kiến, bất không kiến. Bản Đường: Câu tự tánh, câu phi tự tánh.

¹ Đường dịch: Câu sanh câu bất sanh. ² Ngụy dịch: Sanh kiến bất sanh kiến, thường kiến vô thường kiến, tướng kiến vô tướng kiến.

sanh diệt. Ở trên câu thường tức chỉ Niết-bàn¹. Trước nói tiến đến vô tự tánh, song nói “tiến đến” cũng như nói “rốt ráo”. Bởi pháp thế xuất thế rốt ráo đều vô tự tánh. Đây nói “Câu lìa tự tánh cũng trọn bất khả đắc” cho nên đều nói phi.

Đây là lời tự dẹp của Phật, sau đây là lời phá dẹp chỗ chấp của Đại Huệ.

Câu đoạn câu bất đoạn. Câu biên câu phi biên. Câu trung câu phi trung. Câu thường câu phi thường.

Đây quả trách chung pháp tà chánh của thế và xuất thế.

Câu thường vô thường ở trước là Niết-bàn chân thường và sanh tử vô thường. Câu thường ô đoạn này là hai kiến chấp đoạn thường của ngoại đạo, nghĩa là xác định câu “chết là thường, chẳng thường” đều bị khiến trách. Trung là pháp trung đạo Nhất thừa xuất thế. Biên là không hữu nhị biên, là pháp xuất thế Tam thừa. Đoạn thường là pháp tà kiến của thế gian ngoại đạo. Trong lý chân như phàm thánh chẳng lập, mê ngộ đều không, nên đều nói phi.

Câu duyên, câu phi duyên. Câu nhân, câu phi nhân. Câu phiền não, câu phi phiền não. Câu ái, câu phi ái. Câu phương tiện, câu phi phương tiện. Câu xảo, câu phi xảo². Câu tịnh, câu phi tịnh. Câu thành, câu phi thành. Câu thí, câu phi thí. Câu đệ tử, câu phi đệ tử. Câu sự, câu

¹ Bản Ngụy nói: Ly tự tánh kiến, chẳng ly tự tánh kiến. ² Bản Đường: Câu thiện xảo, câu phi thiện xảo.

¹ Bản Đường: Đây và nghĩa các câu khác.


GHI CHÚ

Footnotes

  1. 📝 Lục chủng thành tựu: Pháp, văn, thời, chủ, xứ, chúng.

  2. 📝 Hai bản dịch: Bản Ngụy, ngài Bồ-đề Lưu-chi. Bản Đường, ngài Thật-xoa Nan-đà. (Chính bản, đời Tống, ngài Cầu-na-bạt-đà-la.)

  3. 📝 Tạp Hoa: Một tên khác của kinh Hoa Nghiêm

  4. 📝 Kiến chấp tà chánh có 8: Gồm chánh kiến có tứ cú, tà kiến có tứ cú, thành ra 8.

  5. 📝 Cảnh bị chấp có 100: Cảnh giới là đối tượng bị chấp, gồm 10 cõi (tứ thánh lục phàm) trong mỗi cõi lại có 10, nên 10×10 = 100.

  6. 📝 Đường dịch: Thế nào khỏi kế độ. Thế nào tịnh kế độ. Thế nào khỏi mê hoặc. Thế nào tịnh mê hoặc. (Kể đó là suy nghĩ tinh toán).

  7. 📝 Tất cả đều phi: [❓ Tăng hỏi Mã Tổ: Hòa thượng vì cái gì nói tức tâm tức Phật? 📢 Sư đáp: · Vì để dỗ con nít khóc. ❓ Con nít rịn nỗi thế nào? 📢 Phi tâm phi Phật ❓ Người trụ được hai thứ này rồi, phải dạy thế nào? 📢 Nói với y là “Phi vật”]

  8. 📝 Đường dịch: Thế nào chư hữu khởi.

  9. 📝 Hai ngã: Phân biệt ngã chấp và Câu sanh ngã chấp.

  10. 📝 🖋 Bản Ngụy: Pháp lại có mấy loại? Giải nghĩa có mấy loại? 🖋 Bản Đường: Đạo lý mấy bất đồng? Giải thích mấy sai biệt?

  11. 📝 Bản Ngụy: Nhân gì có gió mưa?

  12. 📝 Bản Đường: Lục thời nhiếp. Cựu chú: bên Ấn Độ hai tháng thành một tiết, một năm chia 6 tiết. Ngoại đạo có lục tiết sư.

  13. 📝 Nhất xiển-đề: (Nhất xiển: Tin; Đề: Bất cụ) nghĩa là người tin bất cụ (lòng tin không đủ).

  14. 📝 Hai bản dịch: Tu hành tận tới.

  15. 📝 Ngụy dịch: Dạy những người nào tu, khiến trụ những pháp nào.

  16. 📝 Đường dịch: Tiên nhân thường khổ hạnh, là dạy bảo những ai.

  17. 📝 Hai bản dịch đều nói: Thiên sư là Thế Tôn.

  18. 📝 Bốn môn: Bốn vấn đề chính là năm pháp, ba tự tánh, tâm thức, hai vô ngã. Mười cõi: Tứ thánh và lục phàm.

  19. 📝 Song trần: Bụi ở cửa sổ.

  20. 📝 Thố mao đầu trần: Bụi đầu lông thỏ.

  21. 📝 Dương mao đầu trần: Bụi đầu lông dê.

  22. 📝 Ngưu mao đầu trần: Bụi ở đầu lông trâu (tức lớn hơn các hạt bụi trên).

  23. 📝 Bản Đường: Thế nào các diệu sơn, tiên-thát-bà trang nghiêm


Luận giải liên quan