Tổ Thứ 6 - Di Già Ca - Miccaka


👤 GIỚI THIỆU

Đầu thế kỷ thứ ba sau Phật Niết-bàn. Ngài người Trung-Ấn, không rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề-Đa-Ca. Sau đó, Ngài tu hành chứng được quả thánh. Khi sắp tịch, Tổ Đề-Đa-Ca gọi Ngài lại bảo:

-Xưa Như-Lai thầm trao đại pháp nhãn cho Đại-Ca-Diếp lần lượt truyền trao đến ta, nay ta trao cho ngươi, ngươi phải gìn giữ truyền trao chớ dứt. Nghe ta nói kệ:

Thông đạt bổn tâm pháp, Vô pháp vô vi pháp. Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô tâm diệc vô pháp.

Dịch: Thông đạt pháp bổn tâm, Không pháp không phi pháp Ngộ rồi đồng chưa ngộ, Không tâm cũng không pháp.

Sau khi được pháp, Ngài du hóa các nơi tùy căn cơ giáo hóa chúng sanh. Một hôm, Ngài đến Bắc-Ấn chợt thấy trên thành có vầng mây màu vàng. Ngài ngó sang những người bên cạnh bảo: Đây là vượn khí đại thừa. Trong thành nầy sẽ có bậc chí nhơn nối pháp cho ta. Khi đi vào trong thành đến chợ, quả gặp người tay ôm bầu rượu, đón Ngài hỏi:- Tôn-giả từ phương nào đến, muốn đi về đâu? Ngài đáp: -Ta từ tâm mình đến, muốn đi không chỗ. - Tôn-giả biết vật trong tay tôi chăng? Đây là đồ đựng vật làm mất thanh tịnh. - Tôn-giả biết tôi chăng? - Tôi thì chẳng biết, biết thì chẳng tôi

  • Ngài lại bảo:- Ngươi hãy nói tên họ ra, ta sẽ chỉ nhơn đời trước cho ngươi. Người ấy bèn nói kệ:

Ngã kim sanh thử quốc, Phục ức tích thời nhựt. Bổn tánh Phả-La-Đọa, Danh tự Bà-La-Mật.

Dịch: Nay tôi sanh nước nầy, Lại nhớ ngày xa xưa Dòng họ Phả-La-Đọa, Tên là Bà-La-Mật

Ngài nghe rồi nhớ lại duyên trước, bèn bảo Bà-Tu-Mật: - Thầy ta là Đề-Đa-Ca thường nói: Xưa kia Như-Lai du hóa Bắc-Ấn có báo A-Nan: . Đây là Như-Lai thọ ký cho ngươi, ngươi nên xuất gia.

Bà-Tu-Mật liền để bầu rượu xuống, đảnh lễ Ngài. Đảnh lễ xong, đứng qua một bên thưa:- Con nhớ lại kiếp xưa thường làm thí chủ cúng dường Phật một bảo tòa. Như-Lai thọ ký cho con rằng: . Nay gặp gỡ đây là cái duyên trước vậy, cúi xin Tôn giả đại từ thương xót độ thoát cho con. Ngài liền vì ông cho cạo tóc xuất gia và thọ đầy đủ giới pháp. Thấy tuổi đã già và cơ duyên hóa độ cũng xong,

Ngài truyền chánh pháp lại cho Bà-Tu-Mật. Truyền xong, Ngài thâu thần tịch diệt. Bà-Tu-Mật và môn đồ lượm xá-lợi để vào bình báu, xây tháp cao tôn thờ trên từng chót để mọi người cúng dường.


Tổ truyền pháp thứ sáu của Thiền Tông Ấn Độ.

Ngài người Trung Ấn Độ, không rõ họ gì. Ngài cùng chúng tiên thọ giáo xuất gia với Tổ Đề Đa Ca. Sau đó, Ngài tu hành chứng được quả thánh.

Ngài vốn cầm đầu tám ngàn vị Đại Tiên, sau, ngài gặp tổ truyền pháp thứ năm là Đề Đa Ca, liền cùng với các vị tiên đồng phát tâm Bồ Đề, xuất gia làm đệ tử Tôn Giả Đề Đa Ca. Sau khi đắc pháp, ngài đến miền bắc Ấn Độ giáo hóa, thấy phía trên bức tường ngắn trên thành có mây lành sắc vàng, khen rằng:

  • Đây là khí tượng của đạo nhân, ắt có bậc đại sĩ nối pháp ta. Ngài đi vào thành. Trong chốn thị tứ có một người tay cầm bình rượu dốc xuống và hỏi:
  • Thầy từ phương nào đến đây, rồi định đi đâu? Sư đáp:
  • Từ tự tâm đến, định đến chỗ không. Hỏi:
  • Biết cái gì trong tay tôi không? Sư nói:
  • Đó là đồ đựng vật làm cho mất thanh tịnh. Hỏi:
  • Thầy biết tôi chăng? Sư nói:
  • Tôi thì chẳng biết, biết thì chẳng phải tôi. Rồi lại bảo:
  • Ông hãy thử tự xưng tên họ, ta sẽ chỉ cho nhân đời trước của ông. Người kia nói kệ đáp: Ngã tòng vô lượng kiếp Chí vu sanh thử quốc Bổn tánh Phả La Đọa Danh tự Bà Tu Mật Dịch: Tôi từ vô lượng kiếp Đến nay sanh nước nầy Dòng họ Phả La Đọa Tên là Bà Tu Mật Sư nói:
  • Thầy ta là Đề Đa Ca nói: Xưa Đức Thế Tôn du hóa Ấn độ, có nói với A Nan “Trong nước này ta diệt độ 300 năm sau có một thánh nhân, dòng họ Phả La Đọa, tên Bà Tu Mật và sẽ được đời thứ bảy trong các tổ sư thiền”. Thế Tôn đã thọ ký cho ông, vậy ông nên xuất gia.

Người kia liền để bầu rượu xuống mà đảnh lễ Sư. Rồi đứng qua một bên, thưa:

  • Con nhớ lại kiếp xa xưa thường làm đàn na, cúng dường bảo tòa cho một Như Lai. Phật đó thọ ký cho con: “Ngươi vào hiền kiếp trong thời pháp của Phật Thích Ca, sẽ tuyên truyền giáo pháp tối thượng”. Nay phù hợp với lời nói của thầy, con mong được độ thốt hơn nữa.

Sư liền vì Bà Tu Mật cho cạo tóc xuất gia và thọ đầy đủ giới tướng. Rồi bảo: “Nay ta trao cho ông chánh pháp nhãn tạng, chớ để đứt mất”. Sư bèn nói kệ: Vô tâm vô khả đắc Thuyết đắc bất danh pháp Nhược liễu tâm phi tâm Thủy giải tâm tâm pháp Dịch: Không tâm không thể được Nói được chẳng gọi pháp Nếu rõ tâm phi tâm

Mới hiểu tâm tâm pháp1 Nếu thật thấy phi tâm (pháp) và tâm vốn không hai thì mới hiểu được tâm và tâm pháp (pháp của tâm) vốn huyễn hiện ở phi tâm.

Sư nói kệ xong nhập sư tử phấn tấn tam muội, vọt thân lên không trung cao gấp bảy cây Sa La rồi trở lại tòa cũ hóa lửa tự thiêu thân.

Bà Tu Mật thu linh cốt đựng trong hộp bằng thất bảo, xây tháp thờ và đặt hộp ở tầng cao.

Nhằm năm Tương Vương thứ 17, năm giáp thân (năm 216 trước công nguyên) (Đúng là năm Tương Vương thứ 15). [X. Kinh Đại Bi Q.2 Phẩm Trì Chính Pháp; Bảo Lâm Truyện Q.2; Tổ Đường Tập Q.1; Cảnh Đức Truyền Đăng Lục Q.1].

Kệ truyền pháp:

Thông đạt bổn tâm pháp Vô pháp vô vi pháp Ngộ liễu đồng vị ngộ Vô tâm diệc vô pháp

Dịch

Thông đạt pháp bổn tâm Không pháp không phi pháp Ngộ rồi đồng chưa ngộ Không tâm cũng không pháp

KỆ TRUYỀN PHÁP

Pháp bổn pháp vô pháp vô pháp pháp diệc pháp Kim phó vô pháp thời Pháp pháp hà tằng pháp.

Dịch:

Pháp gốc pháp không pháp Pháp không pháp cũng pháp Nay khi trao không pháp Mỗi pháp đâu từng pháp.

📜 NGỮ LỤC

📜 TÁC PHẨM


NGUỒN

🔗


GHI CHÚ


Thiền sư liên quan