👤 GIỚI THIỆU
Đầu thế kỷ thứ hai sau Phật Niết-bàn Ngài tên Hương-chúng ở nước Ma-Già-Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn phía. Sau đó, mẹ sanh ra Ngài. Ngài gặp Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa bèn đem điềm mộng của cha thuật lại và nhờ giải hộ. Tổ giải:
. Ngài nghe giải xong, vui mừng khắp khởi xướng kệ rằng:
Nguy nguy thất bảo sơn, Thường xuất trí huệ tuyền. Hồi vi chân pháp vị, Năng độ chư hữu duyên.
Dịch: Vòi vọi núi bảy báu, Thường tuôn suối trí huệ. Chuyển thành vị chơn pháp, Hay độ ngưòi có duyên
Tổ Ưu-Ba-Cúc-Đa cũng nói kệ đáp:
Ngã pháp truyền ư nhữ, Đương hiện đại trí huệ. Kim nhựt tùng ốc xuất, Chiếu diệu ư thiên địa.
Dịch: Pháp ta truyền cho ngươi, Sẽ hiện trí-huệ lớn. Mặt trời mọc trong nhà, Chiếu sáng khắp trời đất.
Ngài nghe kệ rồi, xin theo Tổ xuất gia học đạo. Thấy Ngài ứng đối lanh lẹ, trí-huệ minh đạt, Tổ hoan hỷ chấp nhận cho xuất gia làm đệ-tử. Một hôm, Tổ gọi Ngài bảo: Như-Lai đem đại pháp nhãn tạng trao cho Đại-Ca-Diếp, lần lượt trao truyền cho đến ta, nay ta trao lại cho ngươi. Hãy nghe kệ đây:
Tâm tự bổn lai tâm, Bổn tâm phi hữu pháp. Hữu pháp hữu bổn tâm, Phi tâm phi bổn pháp.
Dịch: Tâm tự xưa nay tâm, Bổn tâm chẳng có pháp. Có pháp có bổn tâm, Chẳng tâm chẳng bổn pháp
Ngài thành kính nhận lãnh chánh pháp. Sau, Ngài sang Trung-Ấn giáo hóa. Nơi đây có tám ngàn vị đại tiên, dưới sự lãnh đạo của đại tiên Di-Dá-Ca. Nghe Ngài đến đây, Di-Dá-Ca vân tập tiên chúng đến yết kiến Ngài.
Gặp Ngài, Di-Dá-Ca thưa: - Xưa tôi cùng Thầy đồng sanh cõi trời Phạm-Thiên. Tôi gặp tiên A-Tư-Đà truyền cho pháp tiên. Thầy gặp đệ tử Phật hướng dẫn tu tập thiền định. Từ đó, cách nhau đã đến sáu kiếp.
Ngài bảo: - Lời tiên nhơn đã nói đúng như vậy. Song, ông chuyên về pháp tiên tột cùng sẽ đến đâu?
Di-Dá-Ca thưa: - Tôi tuy chưa gặp bậc chí thánh, song tiên A-Tư-Đà thường thọ ký rằng: < Sáu kiếp về sau, tôi sẽ nhờ bạn đồng học mà được chứng quả giải thoát. Nay gặp nhau đây đâu không đúng như vậy ư?
Ngài bảo: - Ông đã biết như vậy thì cần phải xuất gia, pháp tiên là đường nhỏ, không thể đưa người đến giải thoát. Ta hóa đạo đã lâu, cũng muốn dừng nghỉ. Nếu ông thật thú hướng về đại pháp thì không nên chậm trễ.
Di-Dá-Ca nghe nói vui mừng liền xin xuất gia. Ngài độ cho ông xuất gia thọ giới.
Lúc đó, tiên chúng theo Di-Dá-Ca thấy vị tiên trưởng của mình làm như vậy, rất bất mãn. Họ nói thầm với nhau rằng: .
Ngài biết tâm họ, muốn gây cho họ có niềm tin, liền phóng quang sáng chiếu, chân đi trên hư không như người đi trên đất bằng, lại hóa cây dù báu che khắp chúng tiên, nơi ngón tay sữa thơm tuôn ra, trong sữa hiện lên một hoa sen, trong hoa sen hóa ra Đức Phật.
Chúng tiên trông thấy thần biến phi thường, bèn cuối đầu cầu xin xuất gia. Tôn giả hoan hỷ chấp nhận.
Thấy cơ duyên hóa độ đã viên mãn, Ngài truyền pháp lại cho Di-Dá-Ca, rồi thâu thần tịch diệt.
Di-Dá-Ca và đồ chúng thiêu hài cốt Ngài, thâu lượm xá-lợi xây tháp tại núi Ban-Trà thờ phụng cúng dường.
Ngài tên Hương Chúng ở nước Ma Già Đà. Nhơn thân phụ Ngài nằm mộng thấy mặt trời vàng ánh xuất hiện trong nhà, chiếu sáng khắp cả. Lại thấy phía trước hiện ra một hòn núi lớn, trang nghiêm bằng bảy báu, trên đảnh núi có dòng suối, nước chảy trong veo, tràn khắp bốn phía. Sau đó, mẹ sanh ra ngài.
Theo Eitel trong Trung Anh Phật Học Từ Điển, Đề Đa Ca, tổ thứ năm tại Ấn Độ, không được Phật Giáo Nam Truyền biết đến, sanh trưởng tại xứ Ma Kiệt Đà, vào khoảng trên một trăm năm sau khi đức Phật nhập Niết Bàn. Ngài là đệ tử và người nối pháp của Tổ Ưu Ba Cúc Đa. Sau gặp Tôn giả Cúc Đa giải thích: Núi báu là thân ta, suối phun là pháp vô tận; mặt trời mọc từ trong nhà ra là tướng ông hôm nay vào đạo, chiếu sáng đất trời là trí tuệ siêu việt của ông. Hương Chúng là tên cũ của Tôn giả, Sư nhân đó đổi thành tên hiện nay. Tiếng Phạn, âm Đề Đa Ca, Trung Hoa dịch nghĩa là Thông Chơn Lượng.
Nghe Sư nói xong, Đa Ca vui mừng hớn hở và nói kệ:
Nguy nguy thất bảo sơn, Thường xuất trí tuệ tuyền. Hồi vi chơn pháp vị, Năng độ chư hữu duyên.
Dịch
Núi bảy báu cao vút, Thường tuôn suối trí tuệ. Chuyển thành chơn pháp vị, Hay độ người hữu duyên.
Tôn giả Cúc Đa cũng nói kệ:
Ngã pháp truyền ư nhữ, Đương hiện đại trí huệ. Kim nhật tòng ốc xuất, Chiếu diệu ư thiên địa.
Dịch
Pháp ta truyền cho ông, Đang hiện đại trí huệ. Mặt trời mọc từ nhà, Chiếu sáng khắp đất trời.
Đề Đa Ca nghe diệu kệ của Sư rồi làm lễ vâng theo. Sau ngài đến xứ Mạt Thể Đề Xá, một vương quốc trung tâm (trung tâm Ấn Độ), nước đó có tám ngàn đại tiên mà Di Già Ca đứng đầu.
Già Ca nghe Tôn giả đến bèn dẫn chúng tới chiêm lễ, thưa với Tôn giả:
-
Xưa thầy với tôi cùng sanh cõi trời Phạm Thiên. Tôi gặp tiên nhân A Tư Đà truyền cho pháp tiên, thầy gặp đệ tử của Đấng thập lực (Phật) tu tập thiền định. Từ đó quả báo phân chia khác đường đã trải qua sáu kiếp.
Tôn giả nói:
-
Chia lìa nhiều kiếp, quả thật bất hư. Nay ông nên bỏ tà quy chánh để vào Phật thừa.
Di Già Ca nói:
-
Xưa tiên nhân A Tư Đà thọ ký cho tôi: “Sáu kiếp về sau ông sẽ gặp bạn đồng học và được chứng quả vô lậu”. Nay gặp nhau đây đâu chẳng phải là duyên xưa ư? Mong thầy từ bi giúp tôi giải thốt. Tôn giả liền độ Già Ca cho xuất gia và sai truyền giới thánh (Phật) cho tiên chúng còn lại. Ban đầu những người này sanh ngã mạn, Tôn giả bèn thị hiện đại thần thông, do đó họ đều phát tâm bồ đề và đồng thời xuất gia.
Sư bèn bảo Di Già Ca:
-
Xưa Như Lai đem đại pháp nhãn tạng thầm giao cho Ca Diếp, lần lượt trao nhau rồi đến ta. Nay ta trao cho ông, hãy nhớ giữ gìn. Rồi nói kệ:
Thông đạt bổn pháp tâm, Vô pháp vô phi pháp. Ngộ liễu đồng vị ngộ, Vô tâm diệc vô pháp.
Dịch
Thông đạt tâm bổn pháp, Không pháp không phi pháp. Ngộ rồi đồng chưa ngộ, Không tâm cũng không pháp.
Nói kệ xong thân Tôn giả vọt lên không trung làm 18 phép biến, hóa hỏa quang tam muội tự thiêu thân thể. Di Già Ca cùng 8000 tỳ kheo cùng thu xá lợi, xây tháp cúng dường trong núi Ban Trà. Nhằm năm Trang Vương thứ 7, năm kỷ sửu (năm 271 trước công nguyên) (Đúng là năm Trang Vương thứ 5).
Kệ truyền pháp:
Tâm tự bổn lai tâm, Bổn tâm phi hữu pháp. Hữu pháp hữu bổn tâm, Phi tâm phi bổn pháp.
Dịch
Tâm tự xưa nay tâm, Bổn tâm chẳng có pháp. Có pháp có bổn tâm, Chẳng tâm chẳng bổn pháp
KỆ TRUYỀN PHÁP
Pháp bổn pháp vô pháp vô pháp pháp diệc pháp Kim phó vô pháp thời Pháp pháp hà tằng pháp.
Dịch:
Pháp gốc pháp không pháp Pháp không pháp cũng pháp Nay khi trao không pháp Mỗi pháp đâu từng pháp.