VÔ TRƯỚC VĂN HỈ [Thiền sư]


👤 GIỚI THIỆU

Thiền sư Vô Trước Văn Hỉ (820 - 899) mới 7 tuổi đã xuất gia. Đứa bé bảy tuổi thì có thể làm được gì?

Lúc đức Phật còn tại thế, một đàn việt (cư sĩ) mà Anan quen biết, không may gặp nạn, cả nhà chết hết, chỉ có một đứa bé bảy tuổi may mắn thoát nạn.

Anan đem nó về chỗ đức Phật ở. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã biết rõ mà cố hỏi: “Đứa bé này là ai vậy?”. Anan đem sự tình thưa lại với đức Phật.

Đức Phật dạy rằng: “Vì sao không cho nó cắt tóc xuất gia? Không có ai chăm sóc, nó chẳng thể nào sống sót!”

Anan thưa: “Tăng đoàn có quy định giới luật, không thể thế độ cho người xuất gia dưới mười hai tuổi”.

Đức Phật hỏi Anan:

“Đứa bé này có thể đuổi chim, đuổi quạ không cho chúng làm hư hại đồ vật của các Tỳ kheo không? Có thể giữ giới đơn giản nhất của Sa di không? Nếu được thì có thể theo ý nguyện cho nó xuất gia.

Anan nghe những lời này bèn xuống tóc cho đứa bé 7 tuổi kia.

Giáo pháp của đức Phật vốn như vậy, linh hoạt nhạy bén, hợp tình hợp lý, chưa từng bị sự ràng buộc của giáo điều cứng nhắc. Từ đó, tiểu Hoà thượng từ 7 tuổi đến mười ba tuổi được gọi là “Sa di đuổi quạ”.

Tiểu Văn Hỉ làm Sa di đuổi quạ nhưng lại hoàn toàn không như người trồng lúa đi dọa nạt chim quạ, trông coi lúa mạch - gọi là đuổi quạ chẳng qua chỉ là lần đầu tiên đức Phật vì đứa trẻ đáng thương mà mở ra một con đường phương tiện xuất gia mà thôi. Tiểu Văn Hỉ thì đi theo Thiền sư Quốc Thanh học rộng hiểu nhiều, học chữ đọc sách, lại ở trong trường tư thục học tập khá nhiều. Chính vì như thế, ngày xưa nhiều trẻ em con nhà nghèo học nhờ ở trong chùa (Phạm Trọng Yêm nhà văn học lớn, nhà chính trị lớn, nhà quân sự lớn, cha chết mẹ tái giá bèn ở trong chùa học nhờ, sau này thi đỗ Tiến sĩ).

Cảnh đẹp không lâu bền, pháp nạn Hội Xương đến gần, Văn Hỉ và hơn hai mươi vạn Tăng ni trong cả nước cũng vậy, bị bức bách hoàn tục. Đầu trọc nhưng không phải Hoà thượng, người để tóc cũng không phải là người thế tục. Văn Hỉ dấu tài ở trong hồng trần mà đạo tâm càng kiên cố. Sau hơn một năm, những người làm Sa di giống như Văn Hỉ trong lịch sử có Lý Thế Dân, gọi là Đường Tuyên Tông làm Hoàng đế, chấn hưng Phật giáo. Văn Hỉ xuống tóc lại tại chùa Tế Phong ở Diêm Quang Chiết Giang , trở về Thiền môn.

Lúc đó, Thiền sư Tánh Không rất nổi tiếng trú trì tại núi Đại Từ ở Hàng Châu, Văn Hỉ đến bái yết. Thiền sư Tánh Không nói: “Ngươi đọc kinh sách nhiều năm, vì sao không đi vân du trong tùng lâm chín châu, tham vấn chư tôn túc trong thiên hạ?”.

Dưới sự khích lệ của Thiền sư Tánh Không, Văn Hỉ một bình một bát, một nón lá, giày cỏ, gậy trúc thêm tay nải bắt đầu chân trời góc bể. Ông đi rồi lại đi, thẳng đường lên phía Bắc, định đến chùa Hoa Nghiêm ở núi Ngũ Đài. Ngũ Đài Sơn là đạo tràng của Bồ tát Văn Thù, tại thế giới mát mẽ băng tuyết lấp lánh đó, một hạt bụi cũng không có, tu thiền thật tốt. Giữa đường, ông gặp một nơi gọi là hang Kim Cang, bỗng nhiên nhìn thấy một ngôi chùa Phật vàng ngọc huy hoàng, ông đang muốn đi vào lễ bái thì gặp một cụ ông dắt bò đi đến, mời ông cùng vào chùa.

Đi vào cửa núi, Lão ông gọi một tiếng: “Quán Đề!” một Đồng Tử đáp lời ra đón. Lão ông buông dây thừng, con bò ngoan ngoãn đi theo Đồng Tử. Dưới sự chỉ dẫn của lão ông, Văn Hỉ đi qua một đại điện hùng vĩ, đi quanh lầu đài cao lớn, đi đến pháp đường.

Một Tự viện đàng hoàng tráng lệ thật, các tòa lầu đều chói lòa ánh sáng vàng rực rỡ, nghiễm nhiên toàn vàng ròng làm nên. Lão ông ngồi ngay ngắn trên thiền sàng, chỉ chỉ cái đôn thêu trước mặt mời Văn Hỉ ngồi xuống.

Lão ông hỏi Văn Hỉ từ đâu đến? Văn Hỉ thưa: “từ phía Nam”. Lão ông lại hỏi: “Phật pháp ở phía Nam như thế nào?”

Văn Hỉ trả lời: “Thời kỳ mạt pháp, Tỳ kheo giữ gìn giới luật nghiêm khắc rất ít”.

Lão ông hỏi câu thứ ba: “Chúng nhiều ít?”.

“Có nơi chúng ở ba trăm, có nơi năm trăm, không chính xác lắm”.

Văn Hỉ hỏi lại: “Phật pháp ở đây như thế nào?”.

Lão ông trả lời: “Rồng rắn lẫn lộn, phàm thánh ở chung”.

“Chúng bao nhiêu?”.Văn Hỉ lại hỏi, lão ông nói: “Trước ba ba, sau ba ba”.

Cái gì trước ba ba sau ba ba? Trước ba ba sau ba ba là bao nhiêu? Văn Hỉ không hiểu, vừa muốn mở miệng thỉnh giáo, lão ông gọi Đồng Tử rót trà và bưng đến một đĩa Tô lạc mà trước nay Văn Hỉ chưa từng thấy. Văn Hỉ nếm thử, mùi hương của nó không thể so sánh, vị ngọt của nó thấm thẳng vào gan ruột, bỗng nhiên ông có cảm giác tâm ý rỗng rang. Lão ông đưa cái tách pha lê lên hỏi: “phương Nam có cái này không?”.

Lúc đó, pha lê vẫn còn là một vật quý hiếm, thuộc một trong thất bảo mà kinh A Di Đà nói đến (vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não), cho nên Văn Hỉ chưa từng thấy qua, ông lắc đầu nói: “Không có”.

Lão ông rót trà vào ly pha lê cho Văn Hỉ, mời Văn Hỉ uống. Văn Hỉ bưng tách lên uống một hớp, lão ông hỏi: “Phương Nam đã không có đồ uống trà này, bình thường dùng gì uống trà?”.

Văn Hỉ bỗng nhiên cảm nhận được thiền cơ sắc sảo, nhưng mà ông ta không có lời gì để đối đáp.

Có thể gặp lại ngàn năm sau, năm thứ chín niên hiệu Quang tự (1883 Tây lịch) cũng tại đây, trên đường đến thăm Ngũ Đại Sơn, Cao tăng Hư Vân thời cận đại bị gió tuyết vây khốn bên bờ Hoàng Hà, trước chẳng thấy thôn, sau chẳng thấy nhà. Rét lạnh, đói khát và tật bệnh, khiến Ngài hơi thở thoi thóp, rồi hôn mê, trời hiểu đến nổi đưa một người từ đâu xuất hiện, cứu Ngài Hư Vân tĩnh lại, ông tự xưng là Văn Kiết, dáng vẻ như ăn xin, nhưng ông ta lại giống như một nhà ảo thuật, có thể không ngớt lấy từ trong người ra những thứ cần thiết. Lúc ông ta đang nấu cháo cho Ngài Hư Vân ăn cho đỡ đói, trời lạnh đất đông, bèn lấy tuyết thay nước. Văn Kiết chỉ tuyết trắng trong nồi hỏi Ngài Hư Vân: “Thượng Tọa từ Phổ Đà đến, Nam Hải có cái này không? Ngài Hư Vân nói không có. Văn Kiết lại hỏi Ngài, ăn gì? Ngài Hư Vân nói uống nước. Một lát sau tuyết trong nồi đã tan, Văn Kiết chỉ tuyết tan thành nước hỏi: “là cái gì?” Lúc đó, Ngài Hư Vân vẫn chưa khai ngộ, cho nên tuy rõ ràng thể ngộ được thiền cơ tốt, nhưng lại có miệng mà khó nói, đối không được.

Mặt trời lặn về Tây, ánh mặt trời sắp hết, Văn Hỉ đứng dậy, chắp tay chào lão ông, thưa rằng: “Trời đã tối, con có thể ở nhờ đây một đêm được không?”

Lão ông nói: “Ngươi còn tâm chấp trước, không thể ở lại đây”.

Văn Hỉ vội phân bua nói con đã phá trừ chấp trước. Lão ông hỏi: “Ngươi đã thọ giới chưa?”

Văn Hỉ nói con đã thọ giới cụ túc đã lâu, rất lâu. Tăng nhân, nếu không thọ giới tức không thể coi là Tỳ kheo chính thức. Nhưng mà, lão ông lại nói: “Nếu ngươi không có tâm chấp trước hà tất lại phải thọ giới?”.

Đúng vậy, nếu đã sáng tâm thấy tánh, căn bản là không thể phạm giới, hà tất phải chấp trước hình thức thọ giới! Văn Hỉ không còn lời gì để nói, đành cáo lui.

Đồng Tử tên ‘Quân Đề’ kia phụng mệnh lão ông tiễn Văn Hỉ ra về. Văn Hỉ hỏi Đồng Tử Quân Đề: “Trước ba ba, sau ba ba, là bao nhiêu?”.

Quân Đề đột nhiên cao giọng hét lên một tiếng: “Đại Đức!”.

Văn Hỉ giật mình, theo bản năng đáp dạ một tiếng. Thiền ý của Đồng Tử Quân Đề nói một cách sắc lạnh : “Là bao nhiêu?”

Văn Hỉ lại một lần nữa cảm nhận được cơ phong cuồn cuộn như sóng đại dương vỗ lên bề mặt…

“Ở đây là nơi nào?”. Bằng trực giác, Văn Hỉ cảm giác mông lung, lão ông, Đồng Tử này phi thường lạ lùng, cho nên ông mượn cớ hỏi nơi nào để thăm dò ngọn ngành của hai nhân vật thần kỳ này.

Quả nhiên Quân đề nói: “Đây vẫn là chùa Bát Nhã hang Kim Cang mà”.

Bát Nhã tức là đại trí tuệ, mà Bồ tát Văn Thù nhờ trí tuệ mà nổi tiếng! Văn Hỉ rỗng rang đại ngộ.

Lão ông kia tức là Bồ tát Văn Thù hiển hóa! đối mặt lại nhầm lẫn, không thể gặp lại nữa, ông vội vàng đảnh lễ Đồng Tử, khẩn cầu cho mình ít lời trước khi rời khỏi.

Đồng Tử liền nói bài kệ:

Trên mặt không sân cúng dường đủ,

Trong miệng không sân nhả hương thơm,

Trong lòng không sân là trân bảo,

Không cấu không nhiễm là chân thường.

Nói xong Đồng Tử Quân Đề chỉ chùa Kim Cang Bát Nhã sau lưng Văn Hỉ, Văn Hỉ vội vàng quay đầu. Ngôi chùa hùng vĩ hoa lệ kia đã không còn thấy dấu vết gì nữa. Đợi Văn Hỉ quay người lại thì Đồng Tử Quân Đề kia cũng đã mất tông tích. Một vùng núi hoang mênh mông, một vùng đất sạch sẽ trắng toát. Dường như chùa kia, người kia, cảnh kia chẳng qua đều là huyễn mộng, họ đều chưa hề tồn tại vậy! Nhưng mà, trong lòng Văn Hỉ cuối cùng đã lưu lại trăm mối thương cảm, vô cùng buồn bã và tự hối hận khiến người ta sợ hãi trong lòng…

Từ ngàn dặm vì ngươi mà đến, gặp mặt rồi không biết là ngươi. Năm tháng trôi qua vô ích, ngày nào mới có thể gặp lại ngươi? Văn Hỉ bỗng nhiên cảm thấy trong bầu trời trên đầu, trong mây lành ngũ sắc, dường như có Bồ tát Văn Thù cưỡi sư tử lông vàng từ từ lướt qua…

Thế mà, đến khi ông ngẩng đầu lên, một đám mây trắng từ phương đông bay đến, che phủ tất cả không còn dấu vết. Sau này khi Thiền sư Độc Nhãn Long Minh Chiêu đọc đến công án này, tâm có sở ngộ, thuận miệng ngâm bài tụng:

Sa giới mênh mông còn già lam,

Khắp nơi Văn Thù đang luận đàm,

Ngay lời không biết mở mắt Phật,

Quay đầu chỉ thấy núi xanh thôi.

Ngàn năm mộng huyễn huyễn ngàn năm, ngàn năm thương cảm ngàn năm dài, ngàn năm sau, Đại sư Hư Vân đến Ngũ Đài có thơ rằng:

Núi đẹp thần sắc tự trời ban,

Ngàn vạn Bồ tát trụ Ngũ Đài,

Tuyết chứa ngàn năm Tăng nhập định,

Mây lành một đám bay nhỡn nhơ.

Cõi thanh lương sắc vàng kỳ dị,

Vui vì Mạn Thù trí tuệ tài,

Trước sau ba ba là nhiều ít?

Văn Hỉ hành cước chưa hề đến.

Già lam, là tên gọi khác của chùa chiền Phật giáo; Mạn Thù là tên gọi khác của Bồ tát Văn Thù. Đúng như Đại sư Hư Vân đã nói, Thiền sư Văn Hỉ sau khi cắm tích trượng ở Ngũ Đài Sơn mấy năm, công phu tu tập tiến bộ nhiều. Chính vì có mấy năm đặt cơ sở tu tập thiền định, ông ở Hàm Thông ba năm rồi trở về phương nam, đến núi Quan Âm ở Hồng Châu tham kiến Thiền sư Ngưỡng Sơn Huệ Tịch, một câu nữa lời liền khế nhập tâm ấn của chư Phật, đạt được pháp mạch truyền thừa của tông Quy Ngưỡng.

Sư phụ Quy Ngưỡng Huệ Tịch nói với ông, người tu thiền phải phước huệ song tu. Thế là ông giữ chức điển tòa của tự viện- người quản lý nhà ăn, bỏ thiền trượng xuống cầm lấy cây cán bột mì lên, làm việc nấu cơm cho đại chúng.

Một hôm, Thiền sư Văn Hỉ đang nấu cháo, Bồ tát Văn Thù hiện hình trên xẻng xới cơm của ông.

Đại Bồ tát hiển thị Thánh tích. Đây là chuyện thần kỳ, thần thánh linh biết bao! Nhưng gặp mà không thể cầu xin đó là điều nghìn năm khó gặp. Thế mà Thiền sư Văn Hỉ không những không đảnh lễ, quỳ bái, ngược lại còn cầm cây trúc khuấy cháo đánh túi bụi, và còn trách mắng: “Văn Thù là Văn Thù, Văn Hỉ là Văn Hỉ.”

Đây chính là khí khái của người khai ngộ: “Ta chính là ta, ta là pháp vương, ta đội trời, đạp đất, ta cũng như chư Phật, không hề khiếm khuyết! Hóa thân của Bồ Tát Văn Thù chịu no một trận đòn, với bộ mặt khóc tang mà nói kệ:

Bầu đắng đắn tận góc, dưa ngọt ngọt đến cuống.

Tu hành ba đại kiếp, lại bị lão tăng ghét.

Một hôm, trong chùa có một vị Tăng lang thang áo xống rách nát, mặt mày dơ dáy, toàn thân ghẻ lở đến. Trên người ông phát ra mùi hôi, ai gặp ông cũng đều bịt mũi, tránh xa thật xa.

Văn Hỉ không chút ghét bỏ ông, dìu ông vào liêu phòng của mình, hết lòng chăm sóc: rửa sạch mủ máu bôi thuốc băng bó cho ông. Vị tăng lang thang này không có giới điệp (chứng minh thân phận của vị tăng ngày xưa) cho nên, không thể ngủ lại, cũng không có cơm ăn. Văn Hỉ âm thầm nhịn đói, đem phần cơm của mình cho vị tăng lang thang đang bệnh.

Ngưỡng Sơn Huệ Tịch bình tĩnh quan sát kỹ lưỡng rồi nói với Văn Hỉ: “Người đã thành thục rồi, nên xuống núi hoằng hóa đi

Thế là Văn Hỉ trở về Chiết Giang, trụ trì chùa Long Tuyền.

Tại pháp đường có một vị tăng hỏi: “Thế nào là tướng của Niết Bàn?”

Tướng Niết Bàn là một trong tám tướng của Phật, cũng chính là tướng trạng trong lúc Đức Phật nhập diệt: “ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni trụ thế, ngộ đạo, thuyết pháp, hóa duyên đã xong, ở giữa hai cây Sala bên bờ sông Bạt Đề thành Câu Thi La ở miền trung Ấn Độ, sau khi nói Kinh Đại Bát Niết Bàn xong đầu hướng về phía Bắc, mặt hướng về Phía Tây, nằm nghiêng bên phải, cuối cùng viên tịch. Có một số tượng Phật nằm trong các tự viện, tức là tướng Niết Bàn của Đức Phật.

Tướng niết bàn mà vị tăng này hỏi lại có một nghĩa khác, trên thực tế ông ta đang cật vấn như thế nào là cảnh giới viên mãn của Phật? Thiền sư Văn Hỉ đương nhiên hiểu rõ ý đồ này. Sau khi đức Phật trình hiện tướng Niết bàn liền dùng lửa Tam muội tự đốt thân mình. cho nên Thiền sư Văn Hỉ trả lời rằng: “ngươi nên thể nghiệm nơi tận xứ của khói hương.”

Vị tăng này dốt nát chưa thể từ trong đó khế nhập thể nghiệm cảnh giới thanh tịnh viêiệt nam mãn. Thế là ông lại dứt khoát thẳng thắn hỏi: “như thế nào là đại ý của Phật pháp?”

Thiền sư Văn Hỉ nói: “đi tìm viện chủ đến, vị tăng này lại bị bệnh điên rồi”.

Vị tăng này vẫn cứ mơ hồ, hỏi lần thứ ba: “thế nào là bản thân của mình?”

Thiền sư Văn Hỉ yên lặng, trầm mặc hồi lâu không trả lời. Không trả lời chính là câu trả lời xảo diệu nhất: từ nơi vô thanh nghe tiếng sấm, tâm có chút nhạy bén. Nhưng im lặng như tiếng sấm kinh động vũ trụ, cóc nhái trong đáy giếng không ngẩng đầu. Vị tăng này vẫn cứ không chịu hiểu hỏi lại lần nữa.

Thiền sư Văn Hỉ nói: “trời xanh tối tăm, không bay phía trên trăng”.

Quốc Vương Ngô Việt rất kính phục Thiền sư Văn Hỉ, ban cho Ngài ca sa tía, phong hiệu là “Thiền sư Vô Trước”.

Thiền sư Vô Trước Văn Hỉ gần viên tịch, vào nửa đêm Ngài dạy các đệ tử: ‘Ba cõi tâm tận, tức là Niết bàn”. Nói xong kiết già ngồi ngay, nhẹ nhàng ra đi – Ngài lấy tính mạng cuối cùng của mình trực tiếp hiển bày thực tướng Niết bàn.

Thế mà Thiền sư Vô Trước Văn Hỉ đã viên tịch nhưng truyền kỳ vẫn chưa dứt. Sau nhiều name, năm thứ hai niên hiệu Thiên Phúc nước Ngô Việt, một đội quân ào ạt, phản quân tướng lĩnh, binh lính phóng túng cướp bóng, ngay tháp mộ của Thiền sư Văn Hỉ an táng ở núi Linh Ẩn cũng chưa thể may mắn thoát khỏi. Loạn binh phá của tháp, bỗng nhiên nhìn thấy một vị lão Hoà thượng ngồi ngay ngắn trong tháp. Ngài, giống như nhập vào trong thiền định thâm sâu, tựa hồ như chỉ một tiếng khánh vang lên, Ngài liền có thể xuất định, đứng dậy…

Nhục thân của Thiền sư Văn Hỉ không hư hoại, an táng nhiều name vẫn sinh động như sống, tóc móng vẫn dài.


NGUỒN

🔗 THIỀN SƯ TRUNG HOA

🔗 nigioikhatsi

🔗 nigioikhatsi

🔗 Wiki


GHI CHÚ


Thiền sư liên quan