Vạn Tùng Hành Tú [Thiền sư]

Tào Động tông, Pháp tử ngài Tuyết Nham Như Mãn


Giới thiệu

Thiền sư Vạn Tùng Hành Tú được gọi là Vạn Tùng Lão Nhân (萬松老人), thuộc đời thứ 14 của tông Tào Động.

Ông xuất thân vùng Giải Lương (解梁), Huyện Hà Nội (河內), Tỉnh Hà Nam (河南), họ là Thái (蔡).

Ngay từ lúc còn nhỏ ông đã có khí cốt siêu phàm, có chí xuất gia, sau theo xuất gia với Bân Công (贇公) ở Tịnh Độ Tự (淨土寺邢), vùng Hình Châu (邢州), Tỉnh Hà Nam.

Sau đó, ông đến tham học với Thắng Mặc Quang (勝黙光), Thắng Mặc dạy sư: “Hãy tham câu “Quay lại chính mình” của Trường Sa!” Sư bèn tham cứu nhưng không ngộ. Thắng Mặc bảo: “Ta chỉ mong ông lĩnh hội chậm!”. Sư nghe câu này bèn có chút tỉnh ngộ.

Sau sư từ giã Thiền sư Thắng Mặc đến tham vấn với Thiền sư Huyền Sa nhưng cũng chưa được triệt ngộ.

Cuối cùng sư đến tham học với Thiền sư Tuyết Nham Huệ Mãn (雪巖滿) ở chùa Đại Minh (大明寺), vùng Từ Châu, tỉnh Hà Bắc.

Một hôm sư thấy con gà bay lên liền đại triệt đại ngộ. Thiền sư Huệ Mãn ấn khả, truyền y cà sa và phó chúc cho sư nối pháp Tào Động Chính Tông.

Từ đó, dân chúng ở vùng Lưỡng Hà, Tàm Tấn đều biết đến và ngưỡng mộ danh tiếng, đạo hạnh của sư. Ông lưu lại đây 2 năm.

Đầu tiên sư đến trụ trì tại Tịnh Độ, cất am Vạn Tùng Niên (萬松軒) (nghĩa là mười nghìn cây thông) và cư trú tại đây.

Vào năm Quý Sửu (1193), vua Chương Tông nhà Kim cung thỉnh sư vào cung và đích thân hỏi sư về Phật pháp.

Vì ngưỡng mộ đức hạnh và ấn tượng với các câu trả lời của sư nên vua ban cho sư một chiếc cà sa gấm.

Đến năm Đinh Tỵ (1197), sư được vua ban chiếu dời đến trụ trì ở Thê Ẩn tự, Ngưỡng Sơn và Báo Ân Hồng Tế tự ở phủ Thuận Thiên.

Năm 1215, kinh đô nhà Kim bị quân Mông Cổ cướp phá, vua Kim cho dời Kinh đô đến phủ Khai Phong. Sư vẫn ở lại trụ trì tại Bảo Ân tự phía ngoài kinh thành nhà Kim.

Năm 1223, chính khách Mông Cổ (🇲🇳) là Gia Luật Sở Tài (Yelü Chucai) (Đam Nhiên Cư Sĩ) đến gặp sư để tham hỏi Phật pháp. Sau đó, ông trở thành đệ tử tại gia của sư và thường xuyên đến trao đổi với sư về chính sự và học Thiền. Sau 3 năm tham Thiền, ông đại ngộ và được sư ấn khả.

Năm 27 tuổi, ông được vua nhà Kim là Chương Tông (章宗) cung thỉnh đến thuyết pháp.

Về sau, ông đến sống tại Thê Ẩn Tự (棲隱寺) ở Ngưỡng Sơn (仰山) cũng như Báo Ân Hồng Tế Tự (報恩洪濟寺) ở Phủ Thuận Thiên (順天府).

Vào năm 1230, dưới thời vua Thái Tông nhà Nguyên, ông được cử đến trú trì Vạn Thọ Tự (萬壽寺), nhưng rồi cũng quay trở về Tùng Dung Am (從容庵, tức Vạn Tùng Am).

Bộ Tùng Dung Lục (Thong Dong Lục) (從容錄), mà trong đó sư đưa ra kệ tụng, lời bình về 100 tắc công án do Thiền sư Hoằng Trí Chính Giác sưu tập, tụng cổ của Thiền sư Thiên Đồng Như Tịnh (天童) được trình tấu lên vua Ninh Tông (寧宗) nhà Tống vào năm thứ 16 (1223) niên hiệu Gia Định (嘉定). Tác phẩm này cùng với Bích nham lục được xưng là “Thiền môn song bích”.

Sư là đệ tử đắc pháp của Thiền sư Tuyết Nham Như Mãn và có nhiều môn đệ xuất chúng như Tuyết Đình Phúc Dụ, Lâm Tuyền Tùng Luân, Hoa Nghiêm Chí Ôn, Lý Bình Sơn (cư sĩ) (1185-1231), Gia Luật Sở Tài (Đam Nhiên cư sĩ), và Nghĩa Giới.

Vào ngày mồng 7 tháng 4 năm đầu nhuận niên hiệu Định Tông (zh. 定宗) 1246, sư nói kệ rồi thị tịch, hưởng thọ 81 tuổi đời và 60 hạ lạp. Môn đệ trà tỳ nhục thân sư, thu được nhiều xá lợi và xây tháp phụng thờ các nơi, trong đó ngọn tháp Vạn Tùng Lão Nhân ở Bắc Kinh đến nay vẫn còn.

Ngữ lục


Thiền sư liên quan