Hoàng Bá Hy Vận


Giới thiệu

Hoàng Bá Hy Vận (zh. huángbò xīyùn/Huang-po 黃蘖希運, ja. ōbaku kiun), ?-850, là một vị Thiền sư Trung Quốc, một trong những nhân vật nổi tiếng của Thiền tông đời nhà Đường. Sư là Pháp tự của Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải và là thầy của Lâm Tế Nghĩa Huyền, người đã sáng lập dòng thiền Lâm Tế được truyền cho đến ngày nay.

Sư có 13 môn đệ đắc pháp. Tướng quốc Bùi Hưu có cơ duyên được học hỏi nơi sư và để lại hậu thế quyển sách quý báu với tên Hoàng Bá Sơn Đoạn Tế Thiền sư truyền tâm pháp yếu, được gọi tắt là Hoàng Bá truyền tâm pháp yếu. Những lời dạy của sư trong sách này là những nguồn cảm hứng sâu đậm nhất trong thiền ngữ.

Cơ duyên và hành trạng

Sư người tỉnh Mân (Phúc Kiến), Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia trên núi Hoàng Bá. Sư cao lớn vạm vỡ, trên trán có cục u như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí đạm bạc. Ban đầu nghe danh Mã Tổ, sư muốn đến học đạo, nhưng khi đến nơi thì Tổ đã tịch. Sau đó sư đến yết kiến Bách Trượng. Cơ duyên với Bách Trượng được truyền lại như sau (Thích Thanh Từ dịch):

Bách Trượng hỏi: “Chững chạc to lớn từ đâu đến?” Sư thưa: “Chững chạc to lớn từ Lĩnh Nam đến.” Bách Trượng lại hỏi: “Chững chạc to lớn sẽ vì việc gì?” Sư đáp: “Chững chạc to lớn chẳng vì việc khác” và lễ bái, hỏi: “Từ trước tông thừa chỉ dạy thế nào?” Bách Trượng lặng thinh. Sư thưa: “Không thể dạy người sau, dứt hẳn mất.” Bách Trượng bảo: “Sẽ nói riêng với ngươi.” Bách Trượng đứng dậy đi vào phương trượng, Sư đi theo sau thưa: “Con đến riêng một mình.” Bách Trượng bảo: “Nếu vậy ngươi sau sẽ không cô phụ ta.” Một hôm Bách Trượng bảo chúng: “Phật pháp không phải là việc nhỏ, lão tăng xưa bị Mã Tổ quát một tiếng, đến ba ngày vẫn còn ù tai.” Nghe như vậy, sư bỗng ngộ yếu chỉ, bấc giác le lưỡi.

Bách Trượng hỏi Sư: “Ở đâu đến?” Sư thưa: “Nhổ nấm núi Đại Hùng đến.” Bách Trượng hỏi: “Lại thấy đại trùng (con cọp) chăng?” Sư làm tiếng cọp rống, Bách Trượng cầm búa thủ thế. Sư tát Bách Trượng một cái, Bách Trượng cười to bỏ đi. Sau, Bách Trượng thượng đường bảo chúng: “Dưới núi Đại Hùng có con đại trùng, các ngươi nên xem. Lão tăng hôm nay đích thân gặp và bị nó cắn.” Với lời này, Bách Trượng đã công nhận sư là người nối pháp. Sau sư về trụ trì chùa Đại An ở Hồng Châu. Học giả tìm đến rất đông. Chỗ chỉ dạy của sư đều nhằm bậc thượng căn, hạ và trung khó hội được yếu chỉ.

Ngữ lục

Sư thượng đường dạy chúng (Thích Thanh Từ dịch):

”… Người học Đạo hễ có một niệm vọng tâm là xa Đạo, ấy là điều tối kị. Hết thảy mọi niệm đều vô tướng, đều vô vi, tức là Phật. Người học Đạo nếu muốn thành Phật thì hết thảy Phật pháp đều không cần phải học, chỉ cần học cái không mong cầu, không chấp trước là đủ. Không mong cầu thì tâm không sinh, không chấp trước thì tâm không diệt. Tám vạn bốn ngàn pháp môn là chỉ đối trị với tám vạn bốn ngàn phiền não, đấy chỉ là Pháp môn giáo hoá tiếp dẫn. Vốn không có pháp nào, sự lìa bỏ chính là Pháp, người biết lìa bỏ chính là Phật. Chỉ cần lìa bỏ mọi phiền não thì không còn pháp gì để chứng đắc cả… Phàm phu nắm lấy ngoại cảnh, đạo nhân nắm lấy tâm. Tâm, cảnh đều quên chính là pháp chân thật. Quên cảnh thì dễ, quên tâm thật khó. Người ta không dám quên tâm, sợ rơi vào hư không rồi không chỗ nắm níu, chứ không biết rằng, Không vốn vô không, chỉ một Pháp giới chân thật mà thôi vậy.” Có vị tăng hỏi: “Làm thế nào để khỏi bị rơi vào giai cấp của quả vị?” Sư đáp: “Chỉ cần suốt ngày ăn cơm mà chưa từng cắn một hạt gạo, suốt ngày đi mà chưa từng đạp một mảnh đất. Ngay khi ấy không có tướng ngã tướng nhân nào, suốt ngày không rời một việc nào cả, không bị cảnh mê hoặc, thế mới gọi là người tự tại. Bất cứ lúc nào, bất cứ niệm nào cũng không bao giờ thấy một tướng nào cả. Đừng cố chấp ba thời trước sau! Chặp trước không đi, chặp nay không đứng, chặp sau không đến. An nhiên vững ngồi, nhiệm vận không câu chấp, thế mới gọi là giải thoát. Hãy cố lên! Hãy cố lên! Trong pháp môn này, ngàn người vạn người, chỉ được dăm ba. Nếu không nỗ lực công phu, ắt có ngày gặp tai ương. Cho nên nói: Ra sức đời này cho liễu ngộ Hoạ kia kiếp kiếp há mang hoài?…” Đời Đường khoảng niên hiệu Đại Trung, sư tịch tại núi Hoàng Bá. Vua sắc phong là Đoạn Tế Thiền sư.

Sư để lại bài kệ sau để khuyến khích chúng đệ tử (Trần Tuấn Mẫn dịch):

塵勞迥脫事非常

繫把繩頭做一場

不是一番寒徹骨

爭得梅花撲鼻香?

Trần lao quýnh thoát sự phi thường Hệ bả thằng đầu tố nhất trường Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường Đầu dây nắm chặt giữ lập trường Chẳng phải một phen xương lạnh buốt Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.

Về trước tu tập nếu chưa thấu triệt, một phen lưỡi hái tử thần kề cổ, sẽ thấy trăm mối rối ren.

Thế mà, có một bọn ngoại đạo vừa thấy người hạ thủ công phu, bèn cười lạt, bảo rằng: Còn có cái ấy nữa.

Ta thử hỏi ông: Nếu khi thần chết đến, ông lấy cái gì để chống cự lại?

Vậy lúc rảnh rang lo giải quyết cho xong, đến khi gấp rút được ít nhiều tỉnh lực.

Chớ đợi khát nước mới lo đào giếng, khi tay chân co rút, đường trước mịt mờ, trăn trở rối loạn, khổ thay! Khổ thay! Bình nhựt chỉ học Tam muội ngoài môi, nói thiền, nói đạo, trách Phật, chê Tổ, đến lúc này tất cả buông xuôi. Chỉ tưởng dối với người, đâu ngờ ngày nay dối mình.

Tôi khuyên hết thảy huynh đệ, lúc thân thể còn tráng kiện nên chọn lấy những điều mình đã hiểu, làm động cơ tu tiến thì rất dễ dàng.

Tự các ông không chịu lập chí quyết chết thực tập công phu, chỉ nghĩ là khó thì lại càng thấy khó. Nếu là bậc trượng phu hãy khán công án.

Có vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu: “Con chó có Phật tánh không?” Ngài Triệu Châu đáp: “Không”. Suốt 12 thời (24 tiếng đồng hồ) khán một chữ KHÔNG.

Ngày tham, đêm tham, đi, đứng, ngồi, nằm, mặc áo, ăn cơm, đại tiểu tiện… đều dồn hết tinh thần khán một chữ KHÔNG

Lâu ngày chầy tháng kết thành một khối, bỗng nhiên tâm hoa khai phát, ngộ được cái máy nhiệm mầu của Phật, Tổ, sẽ không còn ngờ vực câu nói của Lão Hòa thượng, thấu triệt đại ngộ. Tổ Đạt Ma từ Ấn Độ đến, không gió đã làm dậy sóng. Đức Thế Tôn đưa cành hoa cả hội đều ngơ ngác. Lý này, dù nói đến chết, cả ngàn vị Thánh còn chẳng biết thế nào, chưa tin được cái đạo quá kỳ đặc như thế. Việc này chỉ ngại người hữu tâm.

Sư người tỉnh Mân - Phước Kiến, Hồng Châu, thuở nhỏ xuất gia trên núi Hoàng Bá tại bản châu. Trên trán Sư có cục thịt nổi vun lên như hạt châu, âm thanh trong trẻo, ý chí cao nhàn.


Đi dạo núi Thiên Thai, Sư gặp một vị tăng nói chuyện với nhau như đã quen biết từ xưa, nhìn kỹ là người Mục quang xạ. Hai người đồng hành, gặp một khe suối nước đầy chảy mạnh, Sư lột mũ chống gậy đứng lại. Vị tăng kia thúc Sư đồng qua. Sư bảo:

  • Huynh cần qua thì tự qua.

Vị tăng kia liền vén y, bước trên sóng như đi trên đất bằng. Qua đến bờ, vị tăng kia xoay lại hối:

  • Qua đây! Qua đây!

Sư bảo:

  • Bậy! Việc ấy tự biết. Nếu tôi sớm biết sẽ chặt bắp đùi huynh.

Vị tăng kia khen:

  • Thật là pháp khí Đại thừa, tôi không bì kịp.

Nói xong, không thấy vị tăng ấy nữa.


Sư đến kinh đô nhờ người mách đến tham vấn Mã Tổ, đến nơi Mã Tổ đã tịch. Sư đến Thạch Môn lễ tháp, rồi tìm đến Bá Trượng.

Bá Trượng hỏi:

  • Chững chạc to lớn từ đâu đến?

Sư thưa:

  • Chững chạc to lớn từ Lãnh Nam đến.

  • Chững chạc to lớn sẽ vì việc gì?

  • Chững chạc to lớn chẳng vì việc khác.


Sư liền lễ bái hỏi:

  • Từ trước tông thừa chỉ dạy thế nào?

Bá Trượng lặng thinh.

Khi hỏi đến tông chỉ thì thầy lặng thinh, không nói chững chạc gì nữa.

Sư thưa:

  • Không thể dạy người sau, dứt hẳn mất.

Bá Trượng bảo:

  • Sẽ nói riêng với ngươi.

Bá Trượng đứng dậy đi vào phương trượng. Sư đi theo sau, thưa:

  • Con đến riêng một mình.

Bá Trượng bảo:

  • Nếu vậy, ngươi sau sẽ không cô phụ ta.

Một hôm, Bá Trượng hỏi:

  • Ở đâu đến?

Sư thưa:

  • Nhổ nấm dưới núi Đại Hùng đến.

  • Lại thấy đại trùng chăng?

Sư làm tiếng cọp rống. Bá Trượng cầm búa thủ thế. Sư vỗ vào chân Bá Trượng một cái. Bá Trượng cười to bỏ đi.

Bá Trượng thượng đường bảo chúng:

  • Dưới núi Đại Hùng có con đại trùng, các ngươi nên xem. Lão Bá Trượng này hôm nay đích thân bỗng gặp và bị cắn một cái.

Sư ở chỗ Nam Tuyền. Một hôm, toàn chúng đi hái trà, Nam Tuyền hỏi:

  • Đi đâu?

Sư thưa:

  • Đi hái trà.

  • Đem cái gì hái?

Sư đưa con dao lên. Nam Tuyền bảo:

  • Tất cả đi hái trà đi.

Hôm nọ, Nam Tuyền bảo Sư:

  • Lão tăng ngẫu hứng làm bài ca “Chăn Trâu”, mời Trưởng lão hòa.

Sư thưa:

  • Tôi tự có thầy rồi.

Sư từ giã đi nơi khác. Nam Tuyền tiễn đến cổng, cầm chiếc mũ của Sư đưa lên hỏi:

  • Trưởng lão thân to lớn mà chiếc mũ rất nhỏ vậy?

Sư thưa:

  • Tuy nhiên như thế, đại thiên thế giới đều ở trong ấy.

Nam Tuyền bảo:

  • Vương lão sư vậy.

Sư đội mũ ra đi.


Sau, Sư về trụ trì tại Hồng Châu chùa Đại An. Đồ chúng tìm đến rất đông.

Có lần, Sư tránh chúng tìm đến chùa Khai Nguyên cũng ở Hồng Châu. Tướng quốc Bùi Hưu vào chùa thấy hình vẽ trên vách, hỏi thầy trụ trì:

  • Vẽ cái gì đây?

Thầy trụ trì đáp:

  • Vẽ hình cao tăng.

Bùi Hưu hỏi:

  • Hình có thể thấy, cao tăng ở đâu?

Thầy trụ trì không đáp được.

Bùi Hưu hỏi:

  • Trong đây có thiền nhân chăng?

Thầy trụ trì đáp:

  • Vừa có một vị tăng vào chùa đang làm việc, in tuồng thiền giả.

Bùi Hưu bèn xin cho gặp. Thấy Sư, Bùi Hưu nói:

  • Hưu vừa có một câu hỏi, chư đức tiếc lời, giờ thỉnh thượng nhân đáp thế một câu.

Sư bảo:

  • Mời Tướng công hỏi lại.

Bùi Hưu lặp lại câu hỏi trước.

Sư dùng tiếng trong thanh gọi:

  • Bùi Hưu!

Bùi Hưu:

  • Dạ!

Sư bảo:

  • Ở chỗ nào?

Bùi Hưu ngay nơi đó ngộ được ý chỉ như được hạt châu trên búi tóc, bèn thỉnh Sư vào phủ kính thờ làm thầy.


Có hôm Bùi Hưu hỏi:

  • Thế nào là Phật?

Sư đáp:

  • Tức tâm là Phật, không tâm là đạo. Chỉ không có cái tâm khởi động niệm, có không, dài ngắn, ta người, năng sở…

Tâm vốn là Phật, Phật vốn là tâm, tâm như hư không, sở dĩ nói: “Chân pháp thân của Phật ví như hư không.” Không nên cầu riêng, có cầu đều khổ. Giả sử trải qua số kiếp như cát sông Hằng tu hành lục độ vạn hạnh, được Phật Bồ-đề, cũng không phải cứu cánh. Vì cớ sao? Vì thuộc về nhân duyên tạo tác, nhân duyên nếu hết trở lại vô thường. Sở dĩ nói: “Báo, Hóa không phải chân Phật, cũng không phải nói pháp.” Cốt biết tâm mình không ngã không nhân, xưa nay là Phật.

Bùi Hưu hỏi:

  • Tâm đã xưa nay là Phật, lại cầu tu lục độ vạn hạnh chăng?

Sư đáp:

  • Ngộ tại tâm, không quan hệ gì lục độ vạn hạnh. Lục độ vạn hạnh đều là cửa hóa đạo, là việc bên tiếp vật độ sanh. Giả sử Bồ-đề, chân như, thật tế, giải thoát, pháp thân, thẳng đến thập địa, bốn quả vị Thánh đều là cửa hóa độ, không quan hệ Phật tâm. Tâm tức là Phật, nên nói: “Tất cả trong cửa tiếp độ, Phật tâm là bậc nhất.” Chỉ không tâm sanh tử phiền não v.v… tức không cần đến pháp Bồ-đề v.v… nên nói: “Phật nói tất cả pháp để độ tất cả tâm, ta không tất cả tâm đâu dùng tất cả pháp”.

Từ Phật đến Tổ không luận việc gì khác, chỉ luận một tâm, cũng nói là “Nhất thừa”, nên nói: “Tìm kỹ mười phương lại không có thừa khác, chúng sanh này không còn nhánh lá, chỉ toàn hạt chắc”. Bởi vì ý này khó tìm, nên tổ Đạt-ma sang xứ này đến hai nước Lương, Ngụy mà chỉ có một mình Huệ Khả đại sư thầm tin tâm mình, ngay một câu nói liền lãnh hội “tức tâm là Phật”. Thân tâm đều không, ấy là đại đạo. Đại đạo xưa nay bình đẳng, nên nói “tin sâu chúng hàm sanh đồng một chân tánh”. Tâm tánh không khác, tức tánh tức tâm, tâm không khác tánh, gọi đó là Tổ. Lại có câu: “Khi nhận được tâm tánh, nên nói không nghĩ bàn.”

Sau này, Tướng quốc Bùi Hưu đến trấn Uyển Lăng lập đại thiền uyển thỉnh Sư làm hóa chủ ở đó. Vì mến núi cũ nên Sư vẫn để hiệu là Hoàng Bá 1.


Một hôm, Sư thượng đường, đại chúng vân tập, Sư bảo:

  • Các ngươi! Các ngươi muốn cầu cái gì?

Sư cầm trượng đuổi chúng. Đại chúng không tan. Sư lại ngồi xuống bảo:

  • Các ngươi toàn là bọn ăn hèm, thế mà xưng hành cước để cho người chê cười. Thà cam thấy tám trăm, một ngàn người giải tán, chớ không thể chịu sự ồn náo. Ta khi đi hành cước hoặc gặp dưới rễ cỏ có cái ấy, là đem hết tâm tư xem xét nó. Nếu biết ngứa ngáy khả dĩ lấy đãy đựng gạo cúng dường. Trong lúc đó, nếu dễ dàng như các ngươi hiện giờ thì làm gì có việc ngày nay. Các ngươi đã xưng là hành cước, cần phải có chút ít tinh thần như thế, mới có thể biết đạo. Trong nước Đại Đường không có thiền sư sao?

Có vị tăng ra hỏi:

  • Bậc Tôn túc ở các nơi hợp chúng chỉ dạy, tại sao nói không thiền sư?

Sư bảo:

  • Chẳng nói không thiền, chỉ nói không Sư. Xà-lê chẳng thấy sao, dưới Mã Tổ đại sư có tám mươi bốn người ngồi đạo tràng, song được chánh nhãn của Mã Tổ chỉ có hai ba người, Hòa thượng Lô Sơn Quy Tông là một trong số ấy.

Phàm người xuất gia phải biết sự phần từ trước lại mới được. Vả như, dưới Tứ Tổ, đại sư Ngưu Đầu Pháp Dung nói dọc nói ngang vẫn chưa biết then chốt hướng thượng. Có con mắt này mới biện được tông đảng tà chánh. Người hiện giờ không hay thể hội, chỉ biết học ngôn ngữ, nghĩ nhầm trong đãy da tức chỗ đến an ổn, xưng là ta hội thiền, lại thay việc sanh tử cho người được chăng? Khinh thường bậc lão túc vào địa ngục nhanh như tên bắn. Ta vừa thấy ngươi vào cửa liền biết được rồi. Lại biết chăng? Cần kíp nỗ lực chớ dung dị. Thọ nhận chén cơm manh áo của người mà để một đời qua suông, người sáng mắt chê cười. Ngươi thời gian sau hẳn sẽ bị người tục lôi đi. Phải tự xem xa gần cái gì là việc trên mặt? Nếu hội liền hội, nếu không hội giải tán đi. Trân trọng!


Sư Lâm Tế Nghĩa Huyền đến hỏi:

  • Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư liền đập một gậy. Đến ba phen hỏi, mỗi lần đều bị một gậy. Sau cùng, sư Lâm Tế phải từ giã Sư đi nơi khác. Sư dạy qua tham vấn Đại Ngu. Sau này, Lâm Tế đắc ngộ ý chỉ của Sư.

Chỗ chỉ dạy của Sư đều nhằm vào bậc thượng căn, người trung và hạ khó thấy được yếu chỉ.

Đời Đường khoảng niên hiệu Đại Trung (847 - 860 TL), Sư tịch tại núi Hoàng Bá.

Nhà vua sắc thụy là Đoạn Tế thiền sư, tháp hiệu Quảng Nghiệp.

Sư có làm bài kệ khích lệ chúng:

Trần lao quýnh thoát sự phi thường,

Hệ bã thằng đầu tố nhất trường.

Bất thị nhất phiên hàn triệt cốt,

Tranh đắc mai hoa phốc tỹ hương.

Dịch

Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường,

Đầu dây nắm chặt giữ lập trường.

Chẳng phải một phen xương lạnh buốt,

Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.


NGUỒN


GHI CHÚ

Footnotes

  1. ⭐️ Phần truyền dạy của Sư cho Bùi Hưu đầy đủ, nên đọc phần sưu tập “Tối Thượng Thừa Luận”.


Thiền sư liên quan