Đơn Hà Tử Thuần [Thiền sư]
Tào Động tông, Pháp tử của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải
Giới thiệu
Thiền sư Đơn Hà Tử Thuần (ĐAN HÀ TỬ THUẦN)
Thiền sư Đan Hà Tử Thuần kế thừa tông Tào Động đời Bắc Tống, người huyện Tử Đồng, Kiểm Châu. Tuổi trẻ xuất gia tại chùa Đại An, 20 tuổi thọ giới cụ túc, rồi tham vấn các bậc Thiền đức như Đại Quy Chơn Như, Mộ Triết, Đại Hồng Pháp Ấn…
Sau yết kiến và kế thừa tông phong của Thiền sư Phù Dung, là người nối pháp đời thứ 12 của Thiền sư Thanh Nguyên.
Ban đầu Sư ở núi Đan Hà, sau trụ tại Đại Hồng Đường Châu hoằng truyền Thiền tông.
(丹霞子淳, Tanka Shijun, 1064-1117): vị tăng của Tào Động Tông Trung Quốc, họ là Cổ (賈), xuất thân Huyện Tử Đồng (梓潼), Kiếm Châu (劍州, Tỉnh Tứ Xuyên), còn gọi là Đức Thuần (德淳).
Năm 27 tuổi, ông thọ Cụ Túc giới, rồi đi tham vấn một số danh tăng như Chơn Như Cung Triết (眞如恭喆), Chơn Tịnh Khắc Văn (眞淨克文), Đại Hồng Báo Ân (大洪報恩), v.v., cuối cùng đến tham yết Đạo Giai (道楷) ở Đại Dương Sơn (大陽山) và kế thừa dòng pháp của vị này.
Vào năm thứ 3 (1104) niên hiệu Sùng Ninh (崇寧), ông đến trú tại Đơn Hà Sơn (丹霞山) vùng Nam Dương (南陽), sau chuyển đến Đại Thừa Sơn (大乘山) ở Đường Châu (唐州) và Đại Hồng Sơn (大洪山) ở Tùy Châu (隨州).
Tại những nơi này ông đều cổ xướng Thiền phong của mình.
Vào ngày 11 tháng 3 năm thứ 7 (1117) niên hiệu Chính Hòa (政和), ông thị tịch.
Môn nhân của ông có một số nhân vật tài danh như Chơn Hiết Thanh Liễu (眞歇清了), Thiên Đồng Chánh Giác (天童正覺), Đại Thừa Lợi Thăng (大乘利昇), Đại Hồng Khánh Dự (大洪慶預), v.v.
Các trước tác của ông như Đơn Hà Thuần Thiền Sư Ngữ Lục (丹霞淳禪師語錄) 2 quyển, Hư Đường Tập (虛堂集) 3 quyển, vẫn còn hiện hành.
Sư là pháp tử của Thiền sư Phù Dung Đạo Khải, thuộc đời thứ 9 của Tông Tào Động. Đệ tử của sư có một số vị nổi danh như Chân Yết Thanh Liễu, Hoằng Trí Chính Giác, Đại Thừa Lợi Thăng và Đại Hồng Khánh Dự.
Vào ngày 11 tháng 3 năm thứ 7 (1117) niên hiệu Chính Hòa, sư thị tịch. Tháp mộ an trí ở phía Nam của Hồng Sơn.[1][2]
Sư có để các tác phẩm là: Đan Hà Thuần Thiền Sư Ngữ Lục (zh. 丹霞淳禪師語錄, 2 quyển), Hư Đường Tập (zh. 虛堂集, 3 quyển). Đến đời Nguyên, Thiền sư Lâm Tuyền Tùng Luân thêm vào lời dạy chúng và bình luận của mình vào các công án trong Hư Đường Tập của Đan Hà, tạo thành bộ Lâm Tuyền Lão Nhân Bình Xướng Đơn Hà Thuần Thiền Sư Tụng Cổ Hư Đường Tập (zh. 林泉老人評唱丹霞淳禪師頌古虛堂集, ja. Rinsenrōjinhyōshōtankajunzenjijukokidōshū, 6 quyển).
Sư tên là Cổ Đức Thuần (zh. 賈德淳), quê ở huyện Tử Đồng, Kiếm Châu, tỉnh Tứ Xuyên.[1]
Năm 20 tuổi, sư xuất gia. Đến năm 27 tuổi, sư thọ giới cụ túc. Sư từng đến tham học với nhiều vị Thiền sư nổi tiếng đương thời như Chơn Như Cung Triết (zh. 眞如恭喆), Chân Tịnh Khắc Văn (zh. 眞淨克文), Đại Hồng Báo Ân (zh. 大洪報恩). Cuối cùng, sư đến yết kiến Phù Dung Đạo Khải ở núi Đại Dương. Cơ duyên khế hợp, sư triệt ngộ và trở thành pháp tử của Phù Dung.[1][2]
Sau khi được truyền tâm ấn, sư đến hoằng pháp ở núi Đan Hà, Nam Dương. Kế tiếp, sư dời đến trụ tại núi Đại Thừa ở Đường Châu và núi Đại Hồng ở Tùy Châu. Ở các đạo tràng này, sư đều tận lực đề xướng tông phong Tào Động
Ngữ lục
Một lần, Sư nói:
Trong trời đất, chính giữa vũ trụ có một hòn ngọc ẩn trong thân thể. Hôm nay ta mở toang vũ trụ, đập phá hình sơn để đưa ra cho mọi người. Ai có mắt thì biết rõ ràng.
Sư thường dùng kệ, dạy chúng:
Cỏ trắng đứng trên tuyết màu khác nhau
Trăng sáng và hoa lau cũng chẳng giống
Lại dạy:
Giữa trưa đứng ngọ vẫn còn khuyết
Đêm khuya lặng lẽ trăng chưa tròn
Cuối cùng, Sư viên tịch năm 1117, thọ 54 tuổi. Bài kệ thị tịch:
Mặc cho tuyết rơi dày ba thước
Từng tốt một tấc cũng khó vui
Sư còn để lại cho đời Ngũ Vị Tụng
Sư dạy chúng:
“Trong càn khôn giữa vũ trụ, ở trong có một hòn ngọc ẩn tại hình sơn? Triệu Pháp sư nói thế ấy, chỉ khéo chỉ dấu nói vết, vẫn không thể chỉ bày cho người. Ngày nay Đơn Hà mở hoác vũ trụ đập nát hình sơn, vì mọi người chỉ ra, người đủ mắt biện lấy.” Sư cầm cây gậy chao một cái nói: “Lại thấy chăng? Cò trắng trên tuyết sắc vẫn khác, trăng sáng hoa lau chẳng giống nhau.”[3] Có vị tăng hỏi sư: “Ngưu Đầu (Thiền sư Pháp Dung) khi chưa thấy Tứ Tổ (Đạo Tín) thì thế nào?” Sư đáp: “Cúc vàng vừa nở ong đua hút.” Tăng hỏi: “Sau khi thấy thì thế nào?” Sư đáp: “Mầm khô hoa rụng rõ không nương.