Lăng Nghiêm Tông Thông (Phần Tựa)


📋 MỤC LỤC ➥ 🔗


  • Đời Đường: Ngài Bát Lạt Mật Đế, Sa Môn xứ Thiên Trúc dịch

  • Ngài Di Già Thích Ca, Sa Môn xứ Ô Trường dịch ngữ

  • Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới Đệ Tử chép

  • Đời Minh: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi tông thông

  • Việt Dịch: Thubten Osall Lama - Nhẫn Tế thiền sư

  • Biên tập: Chúng đệ tử Đời Thứ III - Tây Tạng Tự ẤN BẢN LẦN THỨ I - 1997

PHẦN THỨ NHẤT: PHẦN TỰA

Lời Nói Đầu 🔗

TIỂU SỬ NGÀI THUBTEN OSALL LAMA (NHẪN TẾ THIỀN SƯ) 🔗


Duyên khởi của Kinh Lăng Nghiêm Tông Thông

🖌 Đề tựa: _Núi Nam Nhạc, Quan Trương Kim Giản tên là Tăng Phụng Nghi, Thuấn Trưng Phụ_

Xưa, Ngài Thiên Thai **Trí Giả** theo học Đạo thiền sư Huệ Tư ở núi Nam Nhạc, đắc Pháp Hoa Tam Muội, thấy được pháp hội Linh Sơn nghiễm nhiên chưa tan. Từ đó xem Kinh, Luật hoát nhiên thông suốt. Đến khi Ngài giải thích ý nghĩa sáu Căn trong sạch trong kinh Pháp Hoa thì trầm ngâm rất lâu. Có một vị tăng người Ấn nói với Ngài: “_Chỉ có kinh Thủ Lăng Nghiêm là nói rõ ràng công đức của 6 Căn, đủ để y chứng_”.

Từ đó, ngài Trí Giả khao khát ngưỡng mộ. Suốt 16 năm, mỗi sáng tối hướng về phương Tây lễ bái. Phía trái chùa Thiên Thai ở núi Nam Nhạc vẫn còn Đài Kinh. Sau Ngài hơn một trăm năm, kinh Lăng Nghiêm mới vào Trung Quốc.

Kinh do Tể Tướng Phòng Dung ghi chép, văn tự tao nhã, bởi thế các bậc học sĩ đại phu đều tụng kinh này. Tôi từng ba lần đến bái Kinh Đài, lần nào cũng bồi hồi chẳng muốn về, thầm than: “Người xưa ngưỡng mộ kinh này hơn mười mấy năm mà chẳng được thấy. Nay Lăng Nghiêm bày đầy thì người ta lại chẳng hề xem! Tại sao thế ?”. Nhân đó, tôi bèn phát tâm viết bộ Lăng Nghiêm lên đá, thuê thợ chạm rồi xếp thành một tòa thạch thất, khiến người đến viếng bái Kinh Đài sẽ đọc được mà đều nói: Kinh đã đến đây rồi

Như là vì ngài Trí Giả mà bổ sung cho một sự thiếu sót. Vừa cầm bút định viết, chợt nghĩ: chỗ ta viết đây là chữ, chẳng phải là nghĩa vậy! Ngài Trí Giả mong bộ Kinh này đến đây là mong người người hiểu nghĩa của Kinh.

Như Ngài Huyền Sa Sư Bị, nhân đọc Lăng Nghiêm mà phát minh tâm yếu, đó là thâm nhập vào nghĩa vậy. Cho đến thiền sư Linh Nham An, Trường Thủy Tuyền, Trúc Am Khuê, Hoàng Long Nam, Thiệu Long An Dân… đều do Lăng Nghiêm mà ngộ. Như vậy là các Ngài đã không cô phụ sự truyền sang của bộ kinh này. Nếu theo văn mà giải nghĩa, chú thích câu chữ, đến mấy mươi nhà mà nghĩa kinh càng ngày càng xa, đó là lỗi lầm do chẳng cầu ở tâm mình. Nếu tỏ ngộ tự tâm, thì tuy là kinh này chưa đến, mà chỗ y giáo lập nghĩa của ngài Trí Giả, mỗi mỗi đều hợp với Lăng Nghiêm. Không ngộ được tự tâm, tuy là có kinh Lăng Nghiêm trước mặt, thì cũng như kinh ở tại Ấn vậy. Tức là kinh điển đầy nhà mà nào có ích! Việc nhà của các thiền sư là quét sạch văn tự kiến giải cho là chẳng đủ để sùng thượng, thật có lý lắm thay! Nhưng khi tiếp dẫn hàng sơ cơ, xuất lời thổ khí, lời lẽ ý tứ thật tợ Lăng Nghiêm. Cho đến sự phát minh hướng thượng, chứng nhập Bồ Đề, thì cùng với hai mươi lăm chỗ chứng viên thông, cơ duyên không khác. Tức là chẳng tụng Lăng Nghiêm, mà Lăng Nghiêm đã sẵn đủ hiện giờ. Tức là Lăng Nghiêm chưa đến cõi này, mà cõi này chẳng phải là chưa có Lăng Nghiêm.

Tôi chẳng biết tự lượng sức, góp khắp lời của Tông Môn, phối hợp vào kinh văn. Hoặc để thầm hợp, hoặc để cùng thấy, hoặc suy rộng ý kinh, hoặc bày tỏ chỗ chưa bày tỏ. Tôi cũng không ngờ mình làm nổi. Trong khoảng trời đất làm sao có được thứ nghị luận này. Âu cũng do túc nguyện nhiều đời vậy.

Đây là tôi nhờ các vị Lão Túc để làm rõ nghĩa kinh chứ chẳng phải tự do tôi, và lấy Thiền Tông để soi sáng kinh chớ chẳng phải lấy văn tự kiến giải mà giảng. Bèn đặt tên là Tông Thông 1. Tông Thông cùng với Thuyết Thông. Phải tự đắc Bản Tâm thì mới cùng với các bậc Lão Túc mặc áo gặp nhau. Chẳng những một hội Lăng Nghiêm nghiễm nhiên chưa tan, mà ngài Trí Giả đến nay cũng vẫn còn đó.

Bài văn tán ngợi rằng:

Sáu vạn ba ngàn lời mười trang

Giáo, Hạnh, Lý; Không, Giả, Trung quán

Viên thông Hoa tạng Tín Hạnh giải

Chứng rồi Định Huệ xứ Niết Bàn

Phá Vọng hiển Chân, Chân Nhất thật

Phản văn nung Ấm, Ấm tiêu tan

Tội lỗi vô minh mười phương ngục

Tội ấy băng tiêu, tọa Phật tràng

Nam mô Lăng Nghiêm Hội Thượng Chư Phật, Chư Đại Bồ Tát, Chư Thánh Hiền Tăng!!!

💥 THÔNG rằng

Tông Thuyết cu thông, nghiã là đạo lý nói ra đều là tự tại suốt thông. Có câu: Tông Thông là Thuyết Thông vậy. Phép thiền (thiền môn) từ khi được tỏ ngộ thấu đáo, nói rằng Tông Thông; nói pháp tự tại (không còn trở ngại), nói rằng Thuyết Thông.

Có câu: Tông Thuyết cu thông làm bậc Đại Tông Sư.

✨ Tổ Đình Sự Vân Thất nói: Tổ Thanh Lương nói rằng Tông Thông là tự mình tu hành. Thuyết Thông chỉ bậc chưa tỏ ngộ.

✨ Kinh lăng Già: Phật dạy Ông Đại Huệ**: Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát có hai giống thông tướng. Gọi là Tông Thông, Thuyết Thông.**

✨ Đông Chú nói: Tông ấy là gốc của Đạo. Thuyết ấy là dấu tích của pháp giáo.

✨ Chứng Đạo Ca nói: Tông cũng thông, Thuyết cũng thông. Định Huệ tròn sáng, chẳng trệ nơi không.


Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tông Thông 🔗

⚡️ KINH

Đời Đường, Ngài Bát Lạt Mật Đế, sa môn xứ Thiên Trúc, dịch Ngài Di Già Thích Ca, Sa môn xứ Ô Trường, dịch ngữ Trần Chánh Nghị Đại Phu Phòng Dung, Bồ Tát Giới đệ tử chép Đời Minh, Bồ Tát Giới đệ tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi, Tông Thông.
💥 THÔNG rằng

Kinh này tại sao lại đặt tên là Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm?

Khi ấy, Đức Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử từ trong đại chúng, rời khỏi chỗ ngồi, đảnh lễ chân Phật mà thưa rằng: Phải gọi kinh này tên gì? Tôi cùng với chúng sanh làm thế nào phụng trì?

Phật dạy Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: Kinh này tên Đại Phật Đảnh, Tát Đát Đa Bát Đát Ra (Bạch Tán Cái), ấn báu vô thượng, Hải Nhãn trong sạch của mười phương Như Lai. Cũng gọi là cứu hộ người thân, độ thoát A Nan, và Tánh Tỳ kheo ni ở trong hội này, đắc tâm Bồ Đề, bước vào biển Biến Trí. Cũng gọi là Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa. Cũng gọi là Đại Phương Quảng, Diệu Liên Hoa Vương, Thập Phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú. Cũng gọi là Quán Đảnh Chương Cú, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm. Ông nên thọ trì.

Đoạn kinh trên gồm nhiều nghĩa, chỉ cần ba chữ Đại Phật Đảnh là bao gồm hết. Bởi vì Phật Đảnh thần chú, tức là mười phương Phật Mẫu Đà La Ni Chú, tức là Quán Đảnh Chương Cú, tức là độ thoát A Nan và Tỳ kheo ni Tánh, do đó khỏi lập lại. Chú này là Ma Ha Tát Đát Đa Bát Đát Ra, dịch là Đại Bạch Tán Cái, là cái Lọng Trắng Lớn Che Trùm. Ròng trắng phau trong sạch, trùm che hết thảy, nên gọi là lớn. Đại Phật Đảnh thần chú này, chẳng thể nghĩ bàn, mới gọi là Nhân Địa Bí Mật của Như Lai, cái Liễu Nghĩa của Tu Chứng. Vạn Hạnh của Bồ Tát do đây mà sẵn đủ, nên cả thảy rốt ráo bền chắc vậy. Pháp có thể Tiệm mà không thể Đốn, thì không thể gọi là Đại. Có thể Đốn mà không thể Viên, thì cũng không gọi là Đại (lớn) được. Nay nói là Mật, là Liễu, tức là đã gồm nghĩa Đốn. Nói là Tu Chứng, nói là Vạn Hạnh là ngầm nghĩa Viên. Duy cái pháp môn Viên Đốn nầy, cùng với Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm Kinh và Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, không khác. Từ Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng cho đến Diệu Giác là đã bao gồm trong Hoa Nghiêm; còn Nhĩ Căn Viên Thông trọn cùng phẩm Phổ Môn tương ứng. Gồm đủ chỉ thú của hai bộ kinh trên, kinh Lăng Nghiêm thật rộng lớn biết bao!

Chưa ngộ, thì chuyển: Cái chẳng có Sanh Diệt thành ra: Cái Sanh Diệt, tức chẳng phải Liễu Nghĩa. Ngộ rồi, thì chuyển: Cái Sanh Diệt thành ra: Cái Chẳng Có Sanh Diệt, tức là: Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố. Cho nên, một đường đi lên, không ngộ thì không được. Thế thì Chú và Ngộ liên quan thế nào, Ngộ và Chú quan hệ với nhau ra sao, mà đều cũng gọi là Đại Phật Đảnh? Chú không thể nghĩ bàn, Ngộ cũng không thể nghĩ bàn. Chú tức là cảnh giới của Ngộ, Ngộ tức là cảnh giới của Chú. Đây là chỗ: Ngôn Ngữ Đạo Đoạn, Tâm Hành Xứ Tuyệt, thấy do lìa cái Thấy, thì cái Thấy là siêu việt. Cho nên giữ cái Phật Đảnh, lìa cái Tướng Thấy của mình là vậy. Các dòng giống của Phật Đảnh, một phen vượt lên nhập thẳng vào, đó là pháp môn cực tôn cực quý vậy. Hiệp Luận đặt tên là Tôn Đảnh vì lẽ này.

❓ Có vị tăng hỏi Ngài Hoàng Bá rằng: Vô Biên Thân Bồ Tát vì sao chẳng thấy Đảnh Tướng của Như Lai?

Ngài Bá đáp: Thật không thể thấy. Vì sao thế? Vô Biên Thân Bồ Tát tức là Như Lai, không thể trở lại thấy. Chỉ cần ông không tạo ra cái Phật Kiến thì không rơi vào Phật Biên. Không tạo ra cái Thấy Chúng Sanh thì không lạc vào giới hạn chúng sanh. Không gây ra cái Thấy Có thì không lạc vào giới hạn của cái Có. Không tạo ra cái Thấy Không thì không rơi vào giới hạn của cái Không. Không tạo ra cái Thấy của phàm phu thì không rơi vào giới hạn của phàm phu. Không tạo ra cái Thấy của Thánh thì không rơi vào giới hạn của Thánh. Chỉ “Không” tất cả mọi cái Thấy, tức là Vô Biên Thân. Nếu có chỗ Thấy, tức là ngoại đạo. Ngoại đạo thì ham các cái Thấy. Bồ Tát nơi mọi cái Thấy mà chẳng động. Như Lai là nghĩa Như của tất cả các Pháp, nên nói: Di Lặc cũng là Như. Như tức là không có Sanh ra, Như tức là không có Diệt mất. Như tức là không có Thấy, Như tức là không có Nghe. “Đảnh” tức là Viên (tròn), cũng không có cái thấy Viên, nên chẳng rơi vào biên giới của Viên. Bởi thế, thân Phật là “Vô Vi”, không rơi vào giới hạn. Tạm lấy Hư Không làm thí dụ. Tròn đầy như Hư Không rộng lớn, không thiếu không dư. Hãy nhàn nhã vô sự, chớ gắng gượng biện biệt cảnh giới giác ngộ, biện biệt thì thành Thức.

❓ Lại có vị tăng hỏi Tổ Bá Trượng: Bồ Tát Vô Biên Thân không thấy Đảnh Tướng của Như Lai là vì sao?

Tổ Trượng rằng: Vì gây ra cái Thấy Hữu Biên, cái Thấy Vô Biên, nên chẳng thấy được Đảnh Tướng Như Lai. Chỉ như bây giờ đây trọn không có cả thảy cái Thấy Hữu Vô, cũng không phải là không có cái Thấy, thì đó là thấy Đảnh Tướng.

Xem 2 vị tôn túc nói ra nghĩa Phật Đảnh, thật như viên ngọc tròn lăn trên bàn. Nếu biết chỗ ấy mới cho là trên cửa Đảnh, có được: Con Mắt Lẻ. Đã nói là Như Lai Mật Nhân, tức chẳng cậy mượn sự Tu Chứng.

Lại nói: Tu Chứng Liễu Nghĩa là để phân biệt với Chẳng Có Liễu Nghĩa, vậy. Như Lai, ấy là nói về quả vậy.

Kinh Kim Cang: Nếu có người nói: Như Lai có đến, có đi, có ngồi, có nằm, thì người ấy chẳng hiểu nghĩa chỗ ta nói. Vì sao thế? Như Lai là: Không Từ Chỗ Nào Đến, Cũng Không Đi Về Đâu, nên gọi là Như Lai.

❓ Đến không từ chỗ nào, đi không về đâu, quả là vật gì?

Thế mới gọi là Mật vậy. Phật Đảnh Thần Chú là Mật Ngữ của Như Lai, thì hai cái Mật (Mật Ngữ và Như Lai) đó không phải là hai. Lấy cái Mật này làm Nhân, tức lấy cái Mật ấy đắc quả. Như đóa bông sen, nhân quả đồng thời sẵn đủ. Dùng cái này mà tu, thì tu mà không tu. Dùng cái này để chứng, thì chứng mà không chứng.

Kinh nói: Nào mượn sự cực nhọc tu chứng. Đây tức là ý chỉ của Liễu Nghĩa. Nếu không được như thế là vì chưa liễu ngộ vậy.

Xưa, Huệ Minh đuổi kịp Đức Lục Tổ để giành lấy y bát.

Tổ dạy: Ông đã vì Pháp mà đến, hãy an dừng các duyên, không sanh một niệm, ta sẽ vì ông mà nói.

Ông Huệ Minh im lặng hồi lâu, Tổ nói: Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, ngay khi ấy, là Bản Lai Diện Mục của Minh Thượng Tọa.

Ông Huệ Minh nghe xong, đại ngộ.

Lại hỏi: Ngoài lời mật, ý mật ấy, còn cái ý mật nào không?

Tổ đáp: Đã nói cùng ông, tức chẳng phải Mật. Nếu ông soi trở lại, thì Mật ở tại bên ông.

Thầy Minh thưa: Tôi mặc dầu ở Huỳnh Mai, mà thật chưa tỏ ngộ được mặt mũi của mình. Nay nhờ ơn chỉ bày, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Nay hành giả tức là thầy của tôi vậy.

Tổ dạy: Ông đã như vậy, thì nay tôi và ông cùng một thầy Huỳnh Mai. Hãy khéo tự hộ trì.

Ngài Hoài Nhượng ban đầu ra mắt Đức Trung Sơn An thiền sư, hỏi: Thế nào là ý Tổ Sư từ phương Tây đến?

Tổ An nói: Sao không hỏi cái ý của chính ông?

Ngài bèn hỏi: Thế nào là ý của chính mình?

Tổ Sơn đáp: Cần quán xét cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng

Hỏi: Như thế nào là cái Mật Nhiệm tạo nên cái Dụng?

Tổ Sơn dùng mắt mở, nhắm chỉ bày đó. Sư Nhượng không lãnh hội được. Tổ Sơn bèn bảo Ngài ra mắt Đức Lục Tổ.

Lục Tổ hỏi: Từ đâu đến?

Sư Nhượng đáp: Tung Sơn.

Tổ hỏi: Vật gì đó? Đến thế nào?

Sư chẳng đáp dược. Trải qua 8 năm, mới bạch với Tổ rằng: Tôi đã có chỗ am hiểu

Tổ hỏi: Như thế nào?

Ngài đáp: Nói giống như một vật là chẳng trúng!

Tổ hỏi: Lại có thể tu chứng chăng?

Đáp rằng: Tu chứng thì chẳng phải là không, mà ô nhiễm thì chẳng thể được

Tổ rằng: Hay lắm! Cái chẳng có ô nhiễm ấy, là chỗ hộ niệm của chư Phật. Ông đã y vậy, ta cũng y vậy

Như 2 vị tôn túc ấy, khế hợp sâu xa cái Mật Ý, được Tu Chứng Liễu Nghĩa vậy.

Sau, có vị sư hỏi Tổ Bá Trượng: Trước đến giờ, chư Tổ đều có Mật Ngữ trao truyền cho nhau là thế nào?

Tổ đáp: Không có lời Mật. Như Lai không có Bí Mật Tạng. Chỉ như bây giờ soi tỏ ý nghĩa cho rõ ràng, tìm kiếm hình tướng, rõ là bất khả đắc, đó là Mật Ngữ. Từ bậc Tu Đà Hoàn (Nhập Lưu) trở lên cho đến Thập Địa, bất quá chỉ có Chữ và Lời (Ngữ Cú), còn là thuộc về pháp Trần Cấu hết thảy. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều nằm trong phiền não. Chỉ có lời nói, còn trọn cả đều thuộc về Bất Liễu Nghĩa. Chỉ có lời nói, tức chẳng được chấp nhận vậy. Liễu Nghĩa Giáo đều chẳng phải là gì hết thảy (Phi), thì còn tìm kiếm Mật Ngữ nào?

Theo chỗ thấy của Tổ Bá Trượng, thì một chữ Mật cũng phải mửa ra luôn, Liễu Nghĩa Giáo cũng chẳng lập, mới có thể gọi là hướng lên ngàn Phật Đảnh mà đi.

Các vị Bồ Tát muôn Hạnh chưa lìa tu chứng thì sao lại gọi là Hết Thảy Rốt Ráo Kiên Cố? Sở dĩ như vậy vì các Bồ Tát chưa tới địa vị Quán Đảnh, phải có tu, có chứng. Đến địa vị Quán Đảnh rồi, tức là siêu nhập đồng đẳng bậc Diệu Giác, thì có cái gì tu chứng? Các Hành tuy vô thường, nhưng từ trong Diệu Giác lưu xuất ra tất cả sự pháp, đương xứ tịch diệt, nên gọi là Rốt Ráo Kiên Cố.

Kinh nói: Có cái Tam Ma Địa (Chánh Định), gọi là Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Vương, sẵn đủ muôn Hạnh. Mười phương Như Lai do một cửa này mà siêu xuất, đây là con đường Diệu Trang Nghiêm.

Tam Ma Đề này là Đại Định Thủ Lăng Nghiêm, lối Diệu Trang Nghiêm sẵn đủ muôn Hạnh, chẳng phải rời lìa muôn Hạnh mà riêng có cái gọi là Định. Tất cả đều Định, nên gọi là tất cả sự Rốt Ráo Kiên Cố.

Đức Phó Đại Sĩ, ngày thì kinh doanh gây tạo, đêm thì hành Đạo. Thấy Đức Thích Ca, Đức Kim Túc, Đức Định Quang ba vị Phật phóng quang phủ lên mình Ngài Đại Sĩ mới nói: Ta được Định Thủ Lăng Nghiêm. Thuở đó, kinh này chưa đến mà tên Định đã nêu, lạ lùng thay.

Tứ Tổ Đạo Tín dạy Ngài Lại Dung ở núi Ngưu Đầu rằng: Trăm ngàn pháp môn đều quy về Tâm, hằng sa Diệu Đức gồm tại nguồn Tâm. Tất cả Giới Môn, Định Môn, Huệ Môn, thần thông biến hóa đều tự sẵn đủ, chẳng rời tâm ông. Hết thảy Phiền Não, Nghiệp Chướng xưa nay rỗng rang vắng lặng. Hết thảy Nhân Quả đều như mộng huyễn. Chẳng có ba cõi để lìa, không có Bồ Đề nào để tìm cầu. Người cùng chẳng phải người, Tánh Tướng bình đẳng. Đại Đạo rỗng suốt, tuyệt nghĩ, tuyệt lo. Cái Pháp như thế, ông nay đã được, tuyệt không thiếu hụt, cùng Phật không khác, nào có Pháp nào khác nữa. Ông chỉ mặc dùng tự tại, chớ khởi Quán Hạnh, cũng chẳng lóng Tâm, chẳng khởi Tham Sân, chẳng giữ lo buồn, thênh thang vô ngại, mặc ý dọc ngang. Chẳng làm các điều thiện, không gây các điều ác. Đi, đứng, nằm, ngồi, chạm mắt gặp duyên, thảy đều là Diệu Dụng của Phật. Vui sướng không lo nên gọi là Phật.

Được nghe thế, Ngài Lại Dung mở ra một chi phái, gọi là: Quán Đảnh Chương Cú.

Ngài Pháp Nhãn dạy: Tu hành trải qua ba đời sáu chục kiếp, bốn đời một trăm kiếp hay tăng kỳ kiếp cho đến thành quả mà cổ nhơn còn nói là chẳng bằng một niệm duyên khởi Vô Sanh, siêu quá hàng Tam Thừa Quyền Học. Nên chi nói rằng: Gảy móng tay mà viên thành tám vạn Pháp Môn, trong sát na dứt hết ba a tăng kỳ kiếp. Trong Thiền Tông quả có chuyện kỳ đặc đó, há phải vạn hạnh đầy đủ, rồi sau mới đắc Định Thủ Lăng Nghiêm ư? Kinh là Thường Đạo vậy.

Cuốn Thuyết Văn Giải Tự viết: Dệt vải có sợi dọc (kinh), sợi ngang (vĩ): sợi dọc thì thường hằng, mà sợi ngang thì thay đổi. Kinh này do Ngài Long Thọ ở dưới Long Cung mặc tụng đem lên. Vua Ngũ Thiên trân trọng giữ kín chẳng có truyền ra. Há chẳng biết rằng quyển kinh này người người sẵn có, đâu có ai không! Thế mới là Thường Đạo, nào phải là bí mật.

Có vị tăng hỏi ngài Thủ Sơn: Tất cả Chư Phật đều do kinh này mà có ra. Thế nào là kinh này?

Tổ Sơn đáp: Nói nhỏ! Nói nhỏ!

Vị tăng hỏi: Thọ trì thế nào?

Tổ Sơn rằng: Chẳng nhiễm ô

Ngài Đầu Tử tụng rằng:

Nước chảy Côn Luân, núi nổi mây

Người đến, tiều ngư chẳng có hay

Nếu biết núi cao, sông tràn nước

Ắt chẳng quăng rìu với bỏ dây

Dịch:

Thủy xuất Côn Luân, sơn khởi vân

Điếu nhân, tiều phụ muội lai nhân

Chỉ tri hồng lãng, nham loan khoát

Bất khẳng phao ty khí phụ cân

Tổ Dược Sơn bình thường không cho người ta xem kinh. Có lần tự Ngài xem kinh. Một vị tăng hỏi: Hòa Thượng bình thường không cho người xem kinh, sao Hòa Thượng lại xem?

Tổ Dược Sơn* rằng: Ta chỉ cần che mắt

Vị tăng hỏi: Tôi bắt chước Hòa Thượng được không?

Tổ Dược Sơn nói: Ông muốn xem thì phải suốt qua tấm da trâu đã. Cho nên, rõ được chỗ che mắt này, thì mới được cái Diệu của sự Thọ Trì. Mà có xuyên thủng mới chẳng nhiễm ô vậy.


Tựa chung 🔗

⚡️ KINH

Như thế, tôi được nghe, một thời Phật ở tịnh xá Kỳ Hoàn, thành Thất La Phiệt, cùng với chúng đại Tỳ kheo một ngàn hai trăm năm mươi vị, đều là bậc Vô Lậu Đại A La Hán.
💥 THÔNG rằng

Tất cả các kinh đều mở đầu bằng: Như Thị Ngã Văn Nhất Thời. Đây là Đức A Nan tuân theo ý chỉ của Đức Phật, kết tập các kinh, trước xướng sáu chữ này, giải tan mọi nghi ngờ. Như Thị, Như Thị ấy là chỉ có thể tự tin lấy, không cần ngôn thuyết. Nếu hiểu được cái Pháp Như Thị, là chỗ phó chúc bí mật của Phật Tổ, tức là những lời lòng vòng sau này, đều là lời cước chú chua thêm vậy.

Có vị tăng vào tham lễ quốc sư Huệ Trung, sư hỏi: Làm sự nghiệp gì?

Tăng đáp: Giảng kinh Kim Cang

Sư hỏi: Hai chữ đầu hết là cái gì?

Đáp: Như thị

Sư hỏi: Đó là cái gì?

Tăng không đáp được.

Sư bảo: Than ôi! Vậy thì lấy gì mà giảng kinh?

Lại còn thiền sư Tuyết Phong Nghĩa Tồn hỏi một vị tòa chủ: Hai chữ Như Thị là tất cả khoa văn, vậy thì bản văn là làm sao?

Vị tòa chủ không đáp được.

Đức Ngũ Vân đáp thay rằng: Lại chia làm ba đoạn rồi

Hãy nói chỗ Đức Ngũ Vân mở lời, là khoa văn hay là bản văn?

Chữ Tỳ Kheo có ba nghĩa: Khất Sĩ; là Phá Ác; là Bố Ma (làm cho ma sợ).

Chữ A La Hán cũng có ba nghĩa là Ứng Cúng, là Sát tặc (giết giặc), là Vô Sanh.

Đại là để phân với Tiểu.

Lậu cũng có 3 loại: Vô Minh Lậu, Dục LậuHữu Lậu.

Kinh nói: Ông thường nghe trong Luật của Ta có ba nghĩa quyết định tu hành, đó là Nhiếp Tâm làm Giới, do Giới sanh Định, nhờ Định phát Huệ. Đó là ba môn Vô Lậu Học. Cấm Răn (Giới) tức là không lọt ra cái Ham Muốn Dâm Dục (Dục Lậu), Yên Tĩnh (Định) ắt không có Phiền Não (Hữu Lậu), sáng tâm (Huệ) ắt không có Vô Minh Phiền Não. Ba món Vô Lậu này gọi là nghĩa quyết định. Tựa hồ lấy Huệ làm chỗ cực tắc.

Nên Đức Động Sơn nói với Ngài Tào Sơn rằng: Ở thời mạt pháp, người ta phần nhiều là Huệ Khô Khan (Càn Huệ). Để phân biệt thiệt hay giả, thì có 3 loại rỉ chảy (sấm lậu):

1️⃣ là, Kiến Sấm Lậu: chưa lìa phàm phu, sa vào trong biển độc

2️⃣ là, Tình Sấm Lậu: vướng mắc vào thuận nghịch, chỗ thấy không được quân bình

3️⃣ là, Ngữ Sấm Lậu: cứu xét chỗ huyền diệu mà mất đi Tông chỉ, sau trước Cơ Trí đều mê muội tối tăm, trí dơ lưu chuyển

Đối với 3 loại này, thầy phải nên biết.

Trong cái Càn Huệ, lại chia làm 3 thứ này, nếu không có con Mắt Pháp phân biệt thì không thể chiếu phá. Do đó, bậc A La Hán hồi hướng về Đại Thừa, hẳn phải tư duy quán xét lời dạy của Ngài Động Sơn, thì mới đầy đủ cái nghĩa Vô Lậu vậy.

⚡️ KINH

Các vị Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi. Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.
💥 THÔNG rằng

Trụ Trì: là cái Giác Tánh Thường Trụ, (hằng còn), hay nắm giữ (trì) vạn Pháp. Đoạn kinh này chỉ mười mấy chữ, thật bao quát hết ý chỉ của cả bộ kinh.

Các vị Phật Tử trụ trì, khéo vượt lên các Hữu. Ở các quốc độ, thành tựu uy nghi. Theo Phật chuyển pháp luân, kham lãnh xứng đáng di chúc của Phật. Nghiêm tịnh Giới Luật để mở rộng khuôn phép cho ba cõi. Hiện thân vô số, cứu thoát chúng sanh, tột đời vị lai, khỏi các Trần ràng buộc.

💬 Nói rằng: Khéo Vượt Lên Các Hữu, tức là Ngũ Ấm, Lục Nhập, Mười Hai Xứ, Mười Tám Giới, cho đến bảy Đại đều chẳng có thể làm chướng ngại, thì nghĩa Phá Vọng đã đầy đủ hết.

💬 Nói rằng: Thành Tựu Uy Nghi, tức là dựng lập Đạo Tràng, ba món tiệm thứ. Năm mươi lăm địa vị, tức là con đường Bồ Đề, thì nghĩa Hiển Chơn đã đầy đủ.

💬 Nói rằng: Diệu Kham Di Chúc, thì hai mươi lăm pháp môn viên thông đều chứng Tự Tánh, đồng kham thọ ký thành Phật, mà cái tông chỉ Kiến Tánh tự còn.

💬 Nói rằng: Mở Rộng Khuôn Phép Trong Ba Cõi, thì bộ kinh này phù trì Giới Luật, dặn dò cẩn thận bốn Cấm Giới, Thập Thiện và chín loại Định để nêu rõ quy tắc cho ba cõi. Ngài A Nan thị hiện dâm sự để mở đầu bộ kinh là cũng vì vậy.

💬 Nói rằng: Ứng Thân Vô Lượng, là dạy các vị Bồ Tát và A La Hán hiện thân trong đời mạt pháp, hóa làm đủ thứ hình dạng, cứu vớt các chúng sanh luân hồi vậy. Vì phòng ngừa cho chúng sanh đời mạt pháp khỏi các ma sự, Siêu Khỏi Các Trần Ràng Buộc, chứng đến chỗ viên thông. Thật là lời dặn dò khuôn mẫu sau chót của Như Lai vậy.

Ngài Phong Huyệt Chiểu thiền sư có lời dạy rằng: Nếu lập một mảy trần, dẫu nước nhà đang hưng thịnh, lão quê này cũng buồn rầu. Không lập một mảy trần, dẫu nước nhà sụp đổ, lão quê này cũng vui ca.

Ngài Tuyết Đậu dựng cây trụ trượng lên mà nói: Lại còn có vị tăng cùng sống cùng chết nào không? Ýù chỗ lập trần là ở đó.

Tụng rằng:

Lão tăng dạy dỗ chẳng nhướng mày

Mong cho nhà nước vững nền ngay

Mưu thần dũng tướng giờ đâu tá

Vạn dặm gió trong, chỉ tự hay

Ngài Tuyết Đậu ở trong cửa Phật sự, chẳng bỏ một Pháp. Ngài Thiên Đồng ở nơi Thực Tướng chẳng thọ một mảy trần. Hai Pháp song hành bình đẳng, cùng một chỗ xuất ra.

Tụng rằng:

Sông Vị trắng trong thả nhợ câu

Nào giống Di Tề chết đói đâu

Chỉ tại mảy trần sanh lắm vẻ

Nghiệp tốt, danh cao, khó bỏ thay

Lại còn Tổ Trường Khánh nói rằng: Mọi chuyện giống như ngày nay là bởi Lão Hồ có chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

Tổ Bảo Phước nói: Mọi sự giống như ngày nay là vì Lão Hồ tuyệt hết mọi chỗ cho người ta ngưỡng vọng.

Ngài Thiên Đồng dạy thêm: Giàu, ngàn miệng ăn vẫn cho là ít. Nghèo, một thân này vẫn hận là nhiều.

Xét chỗ khai thị của các vị tôn túc, tất cả đều vì người, nào có khác với tâm cứu độ chúng sanh đời sau của Phật, Tổ. Nên sao chép lại để làm cái pháp Trụ Trì.

⚡️ KINH

Các vị là Đại Trí Xá Lợi Phất, Ma Ha Mục Kiền Liên, Ma Ha Câu Si La, Phú Lâu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, Ưu Ba Ni Sa Đà làm Thượng Thủ. Lại có vô số các vị Bích Chi Vô Học và Sơ Tâm đồng đến chỗ Phật giảng đạo. Nhằm ngày các vị tỳ khưu mãn hạ Tự Tứ, các vị Bồ Tát từ mười phương đến, xin Phật giải quyết nghi hoặc, kính vâng Đức Từ Nghiêm, thỉnh cầu Nghĩa Thâm Mật.

Đức Như Lai trải pháp tọa, ngồi khoan thai, vì cả Pháp Hội mà tỏ bày cái mật nhiệm sâu xa. Chúng hội trong sạch, được việc chưa từng có.

💥 THÔNG rằng
Đây là nói về chỗ bắt đầu của kinh. Nói là các vị Bồ Tát thỉnh cầu Mật Nghĩa, mà chẳng có nói: Cái Gì Là Mật. Nói đức Phật tỏ bày cái thâm áo, mà chẳng nói: Cái Gì Là Thâm Áo, thì làm sao chúng hội thanh tịnh lại được chỗ chưa từng có?

Xưa, Đức Thế Tôn một hôm lên tòa pháp. Đức Văn Thù bạch chùy rằng: Hãy xem rõ Pháp Vương Pháp. Pháp Vương Pháp như thế. Đức Thế Tôn bèn xuống pháp tòa.

Tổ Thiên Đồng tụng:

Một đoạn của nhà có thấy không

Miên man trời đất chạy thoi nhanh

Gấm cổ dệt thành, bao Xuân sắc

Ngại gì tiết lộ bởi Đông Quân

Ngài Tuyết Đậu tụng rằng:

Thánh chúng đương nhiên ắt hiểu ngay

Pháp Vương, Pháp Lệnh chẳng như đây

Hội này mà có Thiền gia khách

Văn Thù nào phải hạ một chùy

Nếu đối với chỗ Đức Thế Tôn lên tòa yên ngồi mà đã rõ thông tin tức, mới thật diệu khế cái Áo Mật, mà chẳng cần nhờ đến lời lẽ phiền phức vậy.

Hàng Bích Chi, còn có hạng Sơ Phát Tâm là học trò của hàng Bích Chi.

Hưu Hạ Tự Tứ là trong Luật có dạy ba ngày ra Hạ là Mười Bốn, Mười Lăm và Mười Sáu tháng Bảy.

⚡️ KINH

- Tiếng của Phật hòa nhã như tiếng chim Ca Lăng Tần Già, vang khắp mười phương. - Hằng sa Bồ Tát đến chốn đạo tràng, có Ngài Văn Thù Sư Lợi làm Thượng Thủ.
💥 THÔNG rằng
Chim Ca Lăng Tần Già khi còn trong trứng đã đủ tiếng hay, các loài chim khác không so sánh kịp. Thí dụ cho Đốn Giáo vào ngay dòng giống Phật, không cần mượn tu tập, Tam Thừa không bì kịp. Phật dùng âm thanh này để dạy cho hàng căn cơ Đốn Ngộ.

Thuở xưa, có lần Ngài Mục Kiền Liên muốn cùng tột âm thanh của Phật, dùng hết thần lực, đi qua hằng sa cõi, đến một cõi Phật có Báo Thân rất lớn. Ngài chống trượng đi trên miệng bát cơm của chư vị cõi đó.

Các đệ tử ở đấy đều thưa với đức Phật cõi đó: Tại sao lại có loại trùng giống hệt con người?

Đức Phật kia đáp: Đó là Mục Kiền Liên, đệ tử của phật Thích Ca ở cõi Ta Bà. Chớ thấy hình vóc nhỏ nhoi mà xem thường!

Rồi đức Phật hỏi Ngài Mục Kiền Liên đến đây làm gì. Ngài trả lời là muốn cùng tột âm thanh của Phật.

Đức Phật dạy: Âm thanh của Phật vô tận, ông không thể cùng tột được đâu.

Ngài Mục Kiền Liên bèn trở về.

Nên nói: Khắp Hết Mười Phương, là đúng vậy.

Hằng sa Bồ Tát mỗi mỗi đều có chỗ ở, như những cõi kể trong kinh Hoa Nghiêm, vũ trụ vô cùng, chỗ nào mà chẳng phải là Trụ Xứ của Bồ Tát? Nay nghe âm thanh Phật, các Bồ Tát đi đến với Phật.

Văn Thù tức là Diệu Đức, để bày tỏ cái Thiệt Trí. Mở bày Đốn Giáo thì đúng là Cơ của Ngài, nên Ngài làm Thượng Thủ. Xưa, Ngài Vô Trước Văn Hỷ thiền sư đến động Kim Cương ở núi Ngũ Đài chiêm bái Đức Văn Thù. Ngài gặp một ông già đang dắt trâu đi và mời Ngài vào chùa.

Ông già gọi: Sa di!

Thì có một đồng tử ứng tiếng dạ, chạy ra tiếp. Ông già thả trâu đi, dắt thiền sư lên nhà khách. Nhà cửa đều chói lọi ánh vàng. Ông già ngồi lên giường, chỉ một cái đôn gấm mời Ngài ngồi.

Ông nói: Ông từ đâu tới?

Sư Văn Hỷ đáp: Phương Nam

Ông hỏi: Phật Pháp ở phương Nam trụ trì thế nào?

Sư đáp: Đời mạt Pháp các Tỳ Kheo ít phụng trì Giới Luật.

Ông hỏi: Chúng nhiều ít?

Sư đáp: Hoặc ba trăm, hoặc năm trăm.

Sư Văn Hỹ trở lại hỏi: Phật Pháp ở đây trụ trì thế nào?

Ông già trả lời: Rồng rắn lẫn lộn, phàm Thánh ở chung

Sư hỏi: Chúng nhiều ít?

Ông đáp: Trước ba ba, sau ba ba

Ông kêu đồng tử đem trà và váng sữa lại. Sư dùng xong, tâm ý thông suốt.

Ông già cầm chén pha lê lên hỏi: Phương Nam có thứ này không?

Sư đáp: Không có

Ông hỏi: Bình thường lấy gì uống trà?

Sư không đáp được. (Tiếc thay! Đang khi ấy chỉ nên đập nát nghiến cái chén pha lê! ) Văn Hỷ thấy trời đã tối, bèn hỏi ông ở lại một đêm được chăng.

Ông già nói: Ông còn cái tâm chấp không thể ở lại.

Sư nói: Tôi đâu có tâm câu chấp

Ông già hỏi: Ông đã thọ Giới chưa?

Sư đáp: Thọ Giới đã lâu.

Ông già nói: Nếu không có cái tâm chấp, thì thọ Giới để làm gì?

Sư cáo từ. Ông già bảo đồng tử tiễn Ngài về.

Ngài hỏi đồng tử: Trước 3 3, sau 3 3 là nhiều ít?

Đồng tử gọi lớn: Đại Đức!

Sư ứng tiếng dạ.

Đồng tử nói: Đó là nhiều ít?

Sư Hỷ lại hỏi: Đây là chỗ nào?

Đáp rằng: Đây là động Kim Cương, chùa Bát Nhã.

Sư Văn Hỷ mới tỉnh ngộ ra rằng ông già tức là Văn Thù vậy. Không thể ra mắt trở lại dược nữa, bèn cúi đầu trước đồng tử, xin một lời nói để từ biệt.

Đồng tử đọc bài kệ:

Trên mặt không sân: đồ cúng dường

Trong miệng không sân: xuất Diệu Hương

Trong tâm không sân là châu báu

Không dơ, không nhiễm tức Chân Thường

Nói xong, cả người lẫn chùa đều ẩn mất

Thầy Hỷ sau tham học với Tổ Ngưỡng Sơn, chóng ngộ tâm khế, giữ chức Điển Tòa. Khi nấu ăn, Đức Văn Thù thường hiện hình trên nồi cháo.

Sư Văn Hỷ lấy cái đũa tre quậy cháo đánh mà nói rằng: Văn Thù tự mặc Văn Thù. Văn Hỷ tự mặc Văn Hỷ

Đức Văn Thù bèn nói bài kệ:

Bầu đắng rễ cũng đắng

Dưa ngọt tận cuống ngọt

Tu hành ba đại kiếp

Lại bị lão tăng từ (chối)

Thấu đến Trong Ấy lại còn nói có tâm câu chấp nữa ư?

Tổ Tuyết Đậu tụng rằng:

Ngàn đỉnh nhấp nhô một màu lam

Ai là Văn Thù để đối đàm

Nực cười Thanh Lương nhiều ít chúng

Trước ba ba sau cũng ba ba

Chỗ này mà thấu thoát được mới cho gặp mặt Đức Văn Thù.


Duyên khởi của kinh 🔗

⚡️ KINH

Khi ấy, vua Ba Tư Nặc nhân ngày kỵ (giỗ) phụ vương, mở tiệc chay mời Phật thọ trai. Tự Ngài đứng nơi cung dịch nghinh rước Đức Như Lai, dọn bày các món ăn quý báu, rồi thân đến rước Phật và các vị Đại Bồ Tát. Trong thành lại có các trưởng giả, cư sĩ cùng dự lễ Trai Tăng chờ Phật đến chứng minh. Phật khiến Ngài Văn Thù phân lãnh các vị Bồ Tát và A La Hán đi đến nhà các trai chủ. Duy có Ông A Nan trước đã nhận lời mời riêng, đi xa chưa về, không kịp dự hàng tăng chúng. Ông về một mình, không có Thượng tọa hay A xà lê cùng đi, và ngày ấy cũng không được ai cúng dường. Lúc bấy giờ, ông mang bình bát vào trong một thành, trên đường đi tuần tự khất thực. Ban đầu, trong lòng cầu được một người bố thí tối hậu để làm trai chủ, không kể sang hèn, đều hành tâm Từ bình đẳng. Phát tâm viên thành cho tất cả chúng sanh được vô lượng công đức. Ông A Nan đã biết đức Phật quở ông Tu Bồ Đề và Ông Đại Ca Diếp làm bậc A La Hán, mà tâm chẳng bình đẳng. Ông kính vâng lời khai thị của Phật, lìa thoát mọi nghi báng. Đi đến bên thành, thong thả vào cửa, nghiêm chỉnh oai nghi, kính giữ phép hóa trai.
💥 THÔNG rằng
Vua Ba Tư Nặc cùng các vị trưởng giả, cư sĩ đồng thời cùng dự lễ Trai Tăng, sao ân cần như vậy? Vì công đức Trai Tăng rất lợi ích. Phật có thuyết cho Ông Cấp Cô Độc về quả báo của bố thí: hoặc là bố thí nhiều mà quả báo ít, hoặc là bố thí ít mà quả báo nhiều. Cúng dường cho ngàn vị Phật, không bằng cúng dường cho một vị Tịnh Hạnh. Cho đến cúng dường trăm ngàn vị Phật không bằng cúng dường cho một Đạo Nhân Vô Tâm.

📣 Kinh 42 Chương nói rằng: Phật dạy: Cho một trăm người ác ăn không bằng cho một người thiện ăn. Cho một ngàn người thiện ăn không bằng cho một người giữ Ngũ Giới ăn. Cho một vạn người giữ Ngũ Giới ăn không bằng cúng dường một vị Tu Đà Hoàn. Cúng dường một trăm vạn vị Tu Đà Hoàn không bằng cúng dường một vị Tư Đà Hàm. Cúng dường một ngàn vạn vị Tư Đà Hàm không bằng cúng dường một vị A Na Hàm. Cúng dường một ức vị A Na Hàm không bằng cúng dường một vị A La Hán. Cúng dường mười ức vị A La Hán không bằng cúng dường một vị Bích Chi Phật. Cúng dường một trăm ức vị Bích Chi Phật không bằng cúng dường ba đời Chư Phật. Cúng dường ngàn ức ba đời Chư Phật không bằng cúng dường cho một vị Không niệm, Không Trụ, Không Tu, Không Chứng.

Đại lược hai đoạn trên tương đồng với nhau.

Có vị sư hỏi Tổ Lạc Phổ: Cúng dường trăm ngàn vị Phật chẳng bằng cúng dường một vị đạo nhân không tâm (Vô Tâm). Trăm ngàn chư Phật có lỗi gì? Người đạo nhân Vô Tâm có đức gì?

Tổ đáp: Một mảnh mây trắng qua trước hang. Biết bao chim chóc lạc ổ về.

📣 Ngài Đơn Hà tụng rằng:

Thập Đắc bơ thờ không tỏ hiểu

Hàn Sơn uể oải chẳng biết về

Trước tiếng (thanh tiền) một câu viên âm đẹp

Ngoài vật ba núi mảnh trăng soi

Dịch:

Thập Đắc số dung phi giác hiểu

Hàn Sơn lại đọa bất tư quy

Thanh tiền nhất cú viên âm mỹ

Vật ngoại tam sơn phiến nguyệt quy

Câu 3: Viên Âm là tiếng vọng trải khắp mầu nhiệm, thuộc ẩn. Câu 4 là hiển.

Đây là riêng tụng về đạo nhân Vô Tâm đó vậy.

Ông Cam Chi hành giả một ngày kia vào chỗ Ngài Nam Tuyền bày Trai cúng, gặp Tổ Huỳnh Bá làm Thủ Tòa. Ông xin được bố thí tiền của.

Tổ Bá nói: Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi nói: Nói thế nào để tiêu được cái của cúng của tôi?

Bèn ra về.

Một lát, lại trở vào, nói: Xin được thí tài.

Tổ Bá nói: Tài Thí và Pháp Thí đều không sai biệt.

Ông Cam Chi bèn dâng cúng. Lại một ngày nọ, ông vào chùa dọn cháo, xin Tổ Nam Tuyền tụng niệm cho.

Tổ Tuyền mới bạch chùy, nói: Xin đại chúng vì chồn, trâu già mà niệm: Ma Ha Bát Nhã Ba La Mật Đa

Ông Cam Chi bèn phất tay áo đi ra. Dùng cháo xong, Tổ Tuyền hỏi thầy Điển Tòa: Hành giả đâu rồi?

Đáp: Liền khi nãy đi rồi

Tổ Tuyền bèn đập nát cái nồi.

📣 Ngài Sớ Sơn tụng rằng:

Một mình bày cháo khoe anh tuấn

Nào hay vương lão lại phong lưu

Đập tan nồi cháo bày vụng xấu

Chồn với trâu già một lượt thâu

Như Ông Cam Chi mới đáng gọi là có thể cúng dường đạo nhân Vô Tâm vậy.

Hành khất có 5 nghĩa:

1️⃣ là, trong chứng bình đẳng, ngoài không thấy tướng giàu nghèo.

2️⃣ là, rời cái tâm tham lam kiêu mạn ngã theo điều lợi.

3️⃣ là, có sức Đại Định, chẳng có sợ các độc dữ của nhà gái dâm.

4️⃣ là, lìa bỏ sự nghi ghét của phàm phu.

5️⃣ là, phá chỗ phân biệt của Nhị Thừa.

📣 Đức Duy Ma Cật nói rằng:

Nơi ăn mà bình đẳng, thì nơi pháp cũng bình đẳng. Chẳng luận sang hèn, dơ sạch đều chứng Bồ Đề. Đó là viên thành vô lượng công đức của tất cả chúng sanh. Ông Tu Bồ Đề thì bỏ nghèo theo giàu. Ông Đại Ca Diếp thì bỏ giàu theo nghèo. Thế tức là lòng Từ chẳng quân bình, chẳng gọi là lòng Từ bình đẳng. Nhưng khi Ông A Nan trong tâm vừa khởi niệm như thế, là đã rơi vào ý thức phân biệt, bèn thuộc về cái kế sanh nhai của nhà quỷ, nên ma mới có cơ hội.

Làm sao sánh được với sự hành khất như thế này:

Thuở trước, có vị Hòa Thượng, thường dùng gậy quảy một cái bao bố với cái nệm rách. Bao nhiêu đồ dùng đều bỏ hết ráo trong cái bao ấy. Vào chợ búa xóm làng, thấy vật gì thì xin. Hoặc thịt chua cá mặn, vừa lấy thì bỏ vào miệng, còn lại thì bỏ trong bao. Đời ấy người ta gọi là Trường Đinh Tử. Một hôm, có vị tăng đi trước mặt, Sư bèn vỗ vào lưng, vị tăng quay đầu lại.

Sư nói: Cho ta một đồng tiền.

Tăng nói: Nói được thì cho ông một đồng tiền.

Sư bỏ cái bao bố xuống, khoanh tay mà đứng sững. Lại một ngày nọ, Ngài đứng ở chợ.

Có vị tăng hỏi: Hòa Thượng tại Trong Ấy làm cái gì?

Ngài đáp: Đồng với: Con Người.

Tăng rằng: Đến rồi vậy, đến rồi vậy.

Ngài nói: Ông chẳng phải là con người ấy đâu.

Tăng hỏi: Thế nào là con người đó?

Ngài đáp: Cho ta một đồng tiền!

📣 Ngài có bài kệ:

Một bát cơm ngàn nhà

Cô thân muôn dặm xa

Mắt xanh, người ít thấy

Mây trắng hỏi đường qua

Dịch:

Nhất bát thiên gia phạn

Cô thân vạn lý du

Thanh mục đỗ nhân thiển

Vấn lộ bạch vân đầu

Nếu khế hợp được chỗ ấy, có thể nói là được Nghi Thức của Chư Phật vậy. Một hôm, đức Phật bảo A Nan: Đã đến giờ, ông nên vào thành đi trì bát

A Nan vâng lời. Thế Tôn nói: Ông đã ôm giữ bát thì phải y theo Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ

Ông A Nan mới hỏi: Như thế nào là Nghi Thức của bảy vị Phật đời quá khứ?

Thế Tôn gọi lớn: A Nan!

Ông A Nan ứng dạ.

Thế Tôn rằng: Ôm bát đi! Ôi, nếu Ông A Nan sớm hiểu chỗ này, thì đâu có việc Ma Đăng Già!

⚡️ KINH

Khi đi khất thực, Ông A Nan đi qua nhà người dâm nữ Ma Đăng Già, bị phép huyền thuật của cô ta, là tà chú Ta Tì Ca La của ngoại đạo, bắt vào giường riêng dựa kề vuốt ve làm cho ông gần phá giới thể. Đức Như Lai biết Ông A Nan mắc phải dâm thuật, dùng trai xong liền trở về. Vua cùng đại thần, trưởng giả cư sĩ đều đi theo Phật, mong được nghe Pháp yếu. Khi ấy, trên đỉnh Thế Tôn phóng ra ánh sáng rực rỡ Vô Úy, trong hào quang hiện ra tòa sen báu nghìn cánh, trên có Hóa Thân của Phật ngồi kiết già, tuyên thuyết thần chú khiến Ngài Văn Thù Sư Lợi đem chú này đến giúp đỡ, tiêu diệt tà chú rồi đưa Ông A Nan và nàng Ma Đăng Già về chỗ của Phật.
💥 THÔNG rằng
📣 Bộ Hiệp Luận nói: Đức Phật thương xót chúng sanh bị trôi lăn trong Tam Giới đều do mắc vào Dục. Trong các thứ Dục, chỉ có cái Dâm Dục là nặng hơn hết, nên bộ kinh này mở đầu bằng việc cô Ma Đăng Già. Để nhấn mạnh là nếu bị chìm đắm vào đó là một hoạn nạn lớn, mà diệt trừ được lại là một lợi ích lớn. Ví như chăn dê thì đánh ở sau, nên hễ có cơ hội là răn nhủ cẩn thận.

Có vị tỳ kheo ni tên là Bảo Hương, thọ Bồ Tát giới mà lại lén làm chuyện dâm, lại nói xằng rằng Dâm Dục chẳng phải giết hại hay trộm cắp nên chẳng có sự trả Nghiệp. Liền từ nữ căn sanh ra ngọn lửa lớn rồi dần dần thiêu luôn cả cơ thể, đọa vào Vô Gián địa ngục.

Còn Ngài Ô Sắc Ma thì nghe Phật dạy rằng người đa dâm như đống lửa lớn, nên tu mà hóa Tánh Dâm thành Hỏa Quang Tam Muội, chứng quả A La Hán. Ngài nói rằng:

  • Các phiền não đã tiêu, sanh ra ngọn lửa quý báu, lên bậc Vô Thượng Giác. Ôi! Vô Thượng Giác là địa vị Phật mà nhờ quán sát Dâm Tánh thì có thể lên được! Địa ngục Vô Gián là đường dữ mà vì theo chuyện dâm nên đang còn sống mà đã bị đọa vào. Luận về mười loại Tập Nhân thì Dâm Tập đứng đầu. Nói là Dâm Tập đứng đầu vì đó là sự giao tiếp, phát sinh từ sự cọ xát, nên có ngọn lửa rất mạnh phát ra ở bên trong. Cớ nên Phật bảo sự Hành Dâm gọi là Lửa Dục. Sau mới đến những tội Tham Lam, Kiêu Mạn. Trong Bộ Luật, nói về ba Nghĩa Quyết Định Tu Hành, đó là nhiếp tâm làm Giới, nhân Giới sanh Định, nhân Định sanh Huệ, gọi là ba Vô Lậu Học. Sự đoạn trừ Sát, Đạo, Dâm, Vọng thì kinh này nói Đoạn Dâm trước hết.

Lại nữa, Quán Thế Âm Bồ Tát tự kể về ba mươi hai Ứng Thân thuyết pháp của Ngài, nói rằng:

  • Phạm Thiên Vương nhờ Dục tâm được Minh Ngộ mà cùng với Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đồng gọi là Giải Thoát, còn hai mươi tám hạng kia chỉ có tên thành tựu mà thôi. Lại năm thứ Mùi Cay là thứ làm phát Dâm, tăng Oán Giận nên dạy lập ba món Tiệm Thứ để đoạn trừ, gọi là Tăng Tiến Đệ Nhất. Lại dạy rằng phải quán sát Dâm Dục hơn cả rắn độc, nếu thành tựu được Cấm Giới thì với con mắt thịt của cha mẹ sinh ra có thể thấy suốt cả mười phương.

Đó là gặp cơ hội thì dặn dò kỹ lưỡng vậy. Bộ Luận này quả đã uốn nắn cho ngay ngắn toàn thể mạch lạc của kinh, dặn dò kỹ lưỡng, tỏ liễu sâu xa chỗ mở dạy của bộ kinh mà lấy việc dứt lìa cái Dâm Dục làm đầu, khiến cho người ta sợ hãi đến dựng tóc gáy, lạnh xương sống. Tuy nhiên, người chứng Thật Trí, thì thấy tất cả Thanh, Sắc đều như huyễn như mộng, việc dữ kia chẳng có bóng dáng nào cả ở trong ấy.

📣 Kinh 42 Chương nói:

  • Người nhiều Ái Dục như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, tất phải bị cháy tay. Thiên Thần dâng Ngọc Nữ để thử Phật, muốn xem đạo ý Ngài ra sao.

📣 Phật nói:

  • Cái bao da chứa đồ dơ kia đến đây làm gì. Hãy đi đi! Ta chẳng dùng đến. Vị Thiên Thần rất kính trọng, thưa hỏi ý đạo. Phật dạy cho, liền đắc quả Tu Đà Hoàn.

Lại còn Kinh Duy Ma Cật có đoạn ông Xá Lợi Phất hỏi Thiên Nữ:

  • Sao cô chẳng chuyển thân nữ?

Thiên nữ đáp:

  • Từ mười hai năm nay, tôi tìm cầu hình tướng người nữ mà chẳng thể được. Vậy thì phải chuyển cái gì? Ví như một nhà huyễn thuật, tạo ra một người nữ huyễn.

Như có người hỏi cô ấy:

  • Sao cô không chuyển thân nữ đi? Người ấy hỏi có đúng không?

Xá Lợi Phất trả lời:

  • Không đúng! Huyễn không có tướng nhất định, thì có gì mà chuyển.

Thiên Nữ nói:

  • Tất cả Chư Phật cũng lại như thế. Hết thảy đều không có định tướng, tại sao lại hỏi không chuyển thân nữ?

Liền đó, Thiên Nữ dùng thần thông biến Ông Xá Lợi Phất thành Thiên Nữ và Thiên Nữ thì hóa thân thành như Xá Lợi Phất; rồi hỏi rằng:

  • Sao ông chẳng chuyển thân nữ?

Ông Xá Lợi Phất trong hình tướng thân nữ đáp rằng: Không hiểu sao tôi lại biến thành thân nữ?

Thiên Nữ nói: Nếu Ông Xá Lợi Phất có thể chuyển thân nữ này, thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Như Xá Lợi Phất chẳng phải là người nữ mà lại hiện thân nữ, tất cả người nữ lại cũng như thế, tuy hiện thân nữ mà chẳng phải là người nữ.

Thế nên, đức Phật nói rằng: Tất cả các pháp chẳng phải nam, chẳng phải nữ.

Thiên Nữ liền thu lại thần lực, Ông Xá Lợi Phất trở lại như cũ.

Thiên Nữ bảo: Này, Ông Xá Lợi Phất, sắc tướng thân nữ bây giờ ở đâu?

Xá Lợi Phất nói: Sắc tướng thân nữ không có ở đâu mà không đâu chẳng có.

Thiên Nữ nói: Tất cả các pháp lại cũng như thế, không có ở đâu mà không đâu chẳng có.

Ôi! Thần lực của Thiên Nữ có thể chuyển Ông Xá Lợi Phất, còn chú Tiên Phạm Thiên chẳng thể hủy phá Giới Thể của Ông A Nan. Nghĩa 2 đoạn kinh có thể so sánh cho rõ ràng vậy.

⚡️ KINH

A Nan thấy Phật, cúi lạy buồn khóc, căm hận mình từ vô thủy đến nay một bề nghe rộng nhớ nhiều, chưa toàn đạo lực. Tha thiết xin Phật dạy cho những Pháp Xa Ma Tha (Chỉ), Tam Ma (Quán), Thiền Na (Thiền, Chỉ Quán Viên Tu) vi diệu, là những phương tiện tu hành đầu tiên nhờ đó mười phương Như Lai đắc thành Bồ Đề.

Lúc ấy, lại có hằng sa Bồ Tát, Đại A La Hán và Bích Chi Phật, từ mười phương đến, thảy đều mong nghe lời Phật dạy, lui về chỗ ngồi, yên lặng lãnh thọ Thánh chỉ.

💥 THÔNG rằng
Ông A Nan phát ra lời hỏi đây, là cái xương sống của toàn bộ kinh. Từ đầu đến cuối, Thế Tôn trả lời không bỏ sót chỗ nào. Xa Ma Tha gọi là Chí Tĩnh, là Không Quán. Tam Ma Bát Đề gọi là Lực Dụng Biến Hóa (Như Huyễn), là Giả Quán. Thiền Na là Tịch Diệt, nghĩa là chẳng giữ cái huyễn hóa cũng chẳng trụ tướng Tịnh, tức là Trung Quán.

Kinh Viên Giác nói: Tịch tỉnh Xa Ma Tha, như kính soi muôn tượng. Như Huyễn Tam Ma Đề, như mầm giống dần dần tăng trưởng. Thiền Na là Tịch Diệt, như tiếng vang trong chuông. 3 loại diệu Pháp Môn gọi là Giác Tùy Thuận, nhờ chúng mà mười phương Như Lai cùng chư Đại Bồ Tát được thành đạo. Viên chứng được cả ba thứ là rốt ráo Niết Bàn.

Ông A Nan một bề nghe nhiều học rộng, chứ nếu vẫn tu tập ba Pháp Môn này thì đâu còn phải hỏi. Nay ông bị huyễn thuật ắt là trước đây các công phu Quán Hạnh, Thiền Định đều chẳng được gì, nên mới nghĩ mười phương Như Lai hẳn phải có điều vi diệu về các thứ này.

Xét một chữ Diệu, tợ hồ phảng phất thoáng thấy: nào phải mượn đến sự tu hành khó nhọc lao khổ! Chỉ vì chẳng biết cái phương tiện ban đầu hết là do Ngộ Nhập đó vậy.

Kinh Viên Giác cũng có nói: Chỉ trừ bậc Đốn Giác, thì không theo Pháp Môn. Vốn có một Pháp Môn Đốn Ngộ, chỉ lấy việc Thấy Tánh (Kiến Tánh) làm Tông. Cho nên, nếu thấy được Tánh, thì Vô Tâm đối với Chỉ, Quán mà Chỉ Quán tự có sẵn. Không thấy Tánh, tuy hằng ngày có tu Chỉ Quán cũng khó địch với cảnh ma.

Chỉ có Thấy Tánh mới được Diệu.

Đoạn kinh sau có nói đến: Diệu Minh Chân Tâm, Biển Diệu Trang Nghiêm, Diệu Minh Minh Diệu… đều để trả lời cho ý nghĩa của chữ Diệu, mà chấm dứt bằng bài kệ:

Gọi đó Diệu Liên Hoa Kim Cương Vương, Bảo Giác Như huyễn Tam Ma Đề Khẩy tay, vượt Vô Học Pháp này là Vô Thượng Một đường trực nhập Niết Bàn Của mười phương chư Phật

Pháp Đốn Ngộ này, chẳng phải các loại Chỉ Quán, Thiền Định tầm thường có thể so sánh.

Thuở xưa, Ngài Tuyết Phong ba lần tham yết Tổ Đầu Tử, chín lần thưa hỏi Tổ Động Sơn, cũng đã là bậc đa văn. Kế thế Tổ Đức Sơn rồi, cùng Tổ Nham Đầu đến núi Ngao Sơn ở Lễ Châu. Gặp lúc tuyết rơi, Tổ Đầu mỗi ngày chỉ lo ngủ, còn Ngài Tuyết Phong cứ một mạch tọa thiền.

Một hôm, Ngài Tuyết Phong kêu lớn rằng: Sư huynh, Sư huynh! Dậy đi chớ!

Tổ Nham Đầu rằng: Làm cái gì?

Ngài Tuyết Phong đáp: Đời này chẳng lo xong thì gặp cái lão Văn Thúy ấy sẽ bị lão trói đấy. Ngày nay đã đến đây, vậy mà chỉ lo ngủ.

Tổ Nham Đầu hét to: Cây cột phướn, ngủ đi! Hằng ngày cứ ngồi như ông Thổ Địa trong làng rồi sau nầy đi làm nam nữ ma mị nhà người!

Ngài Tuyết Phong tự chỉ vào ngực mà nói: Tôi đây trong cái ấy chưa yên, chẳng dám tự dối mình

Tổ Nham Đầu nói: Tôi sắp nói rằng ngày sau ông sẽ hướng lên đỉnh núi trơ trụi trên tảng đá kết thảo am, xiển dương đại giáo, sao ông lại nói như thế?

Ngài Tuyết Phong nói: Tôi ở trong ấy quả thật không yên

Tổ Nham Đầu nói: Nếu ông thật như thế, thì cứ theo chỗ thấy của ông, mỗi mỗi nói ra hết đi. Đúng, tôi sẽ chứng minh cho. Không đúng, tôi sửa sang đẽo gọt cho.

Ngài Tuyết Phong nói: Mới đầu, tôi đến tham yết Ngài Giám Quan, nghe buổi giảng nêu lên cái nghĩa Sắc Không, bèn có chỗ vào.

Tổ Nham Đầu nói: Chuyện ấy đã ba mươi năm rồi, rất kỵ nêu lại!

Ngài Tuyết Phong nói: Lại thấy bài kệ của Tổ Động Sơn:

Rất kỵ tìm nơi khác

Mỗi mỗi càng cách xa

Y nay chính là ta

Ta giờ chẳng phải y

Dịch:

Thiết kỵ tùng tha mích

Điều điều dữ ngã sơ

Cừ kim chính thị ngã

Ngã kim bất thị cừ

Tổ Nham Đầu nói: Nếu cho là như thế thì tự cứu cũng chẳng xong

Ngài Tuyết Phong lại nói: Sau đến hỏi Ngài Đức Sơn: Việc xưa nay trong Tông Thừa người tu học có được phần nào chăng? Tổ Đức Sơn đánh cho một gậy, mà rằng: Nói gì vậy? Khi ấy, tôi như thùng vỡ đáy.

Tổ Nham Đầu hét to: Ông há chẳng nghe nói: Từ cửa mà vào ắt chẳng phải là của báu nhà mình, sao?

Ngài Tuyết Phong hỏi: Ngày sau như thế nào mới phải?

Tổ Nham Đầu đáp: Ngày sau mà muốn hoằng dương đại giáo, mỗi mỗi đều từ trong ngực mình tuôn ra. Ngày sau hãy cùng ta mà trùm trời trùm đất đi.

Ngài Tuyết Phong nghe xong đại ngộ, bèn làm lễ, mừng rỡ la lên rằng: Sư huynh ơi, hôm nay mới đúng là Ngao Sơn thành đạo

Kỳ diệu thay, kỳ diệu thay. Đâu phải cứ một bề ngồi thiền mà có được thứ thoại đầu này!


GHI CHÚ


MỤC I: GẠN HỎI CÁI TÂM

🔗

Footnotes

  1. ⭐️


Luận giải liên quan