Lăng Nghiêm Tông Thông - CHƯƠNG 1 - MỤC II - CHỈ RÕ TÁNH THẤY
📋 MỤC LỤC ➥ 🔗
MỤC II: CHỈ RÕ TÁNH THẤY
I. CẦU ĐI ĐẾN CHỖ CHÂN THẬT
💥 THÔNG rằng
Xét chỗ thấy của Anan lúc ấy dường chưa thể đè bẹp thức tình để đến chỗ trong lặng không dao động, chỉ vì chưa được Vô Lậu (96).
Mới đầu thì cho cái tâm Giác Liễu Năng Tri là có vật, nên mới nói “Ở trong, ở ngoài, nơi Căn”.
Đến khi đã biết là chẳng phải vật, nhưng còn cho là có Thức, nên mới nói là “Tùy chỗ Hiệp mà có”, “Thức sanh ở chặng giữa”.
Đến lúc cái Tri, cái Thức đều tiêu hết, rồi mới tin là “Chẳng có dính bám (Vô Trước)”.
Nhưng đã có cái ý “Không dính bám” thì cũng đã dính bám rồi vậy.
Nhưng tất cả không có dính bám mới chỉ đoạn trừ được cái Thức Thứ Bảy, chứ chưa đến cái địa vị lặng lẻ. Mà dù có đến được địa vị lặng lẻ, thì vẫn còn ngồi trong hang ổ của Thức Thứ Tám, chỗ ngoại đạo gọi là Minh Đế(97). Nếu con đường tu Định chỉ là phương tiện bờ mé của việc chuyển Thức thành Trí, mà Thánh giải còn tuyệt chẳng dung chú niệm, huống gì là lại bám lấy phàm tình để bị kéo lôi ? Cho nên, tình phàm
Thánh đều hết, thì Chân Thường hiển lộ, mới gọi là Chân Tế. Thấu suốt Chân Tế mới không bị dâm thuật chuyển đảo.
Chẳng phải chỉ tự mình hiểu biết hẳn hoi đầy đủ chỗ Tịch Tịnh (98) mà còn giúp cho hết thảy phàm phu chưa đủ lòng tin phá trừ được ác kiến vậy.
Ngài Đoan Sư Tử đọc Lăng Nghiêm có bài tụng :
“Bảy chỗ bày Tâm, tâm chẳng thỏa Ngơ ngác Anan không liếc tới Hiện mà bày được, thấy vô tâm Ấy chính trong bùn rửa đất cục”.
Có thể nói là bực có con mắt đầy đủ.
II. PHÓNG QUANG NÊU RA TÁNH THẤY VIÊN MÃN SÁNG SUỐT
💥 THÔNG rằng
Phóng quang động địa, xưa cho là cảnh giới không thể nghĩ bàn, nhưng cũng có thể hiểu được. Các đạo gia, tinh thần đầy đủ, vững chắc, thì trong đêm tối, mắt vẫn có sáng tỏ mà không vật gì chẳng thấy. Huống hồ Đức Thế Tôn nhiều kiếp thành tựu, thì hào quang chẳng có chói lọi rực rỡ sao
Hạng cầu đảo vận động nguyên khí có thể kêu mây mưa xuống, huống là Pháp Thân thanh tịnh của Thế Tôn không bờ không bến thì khắp các thế giới của chư Phật chẳng chấn động sao
Thế Tôn dựng cây cờ Pháp lớn, tất trước tiên phải có chỗ tỏ bày. Chỗ nói là “Khiến tất cả các thế giới hợp lại thành một cõi” là đã ẩn cái ý Hội Vọng quy Chơn vậy. Nếu là hạng thượng căn (99) lợi trí thì thấy ánh sáng như thế, nhìn sự việc như thế, liền được Bổn Tâm, chứng Vô Sanh Nhẫn.
Thiền sư Viên Chiếu(100) lên tòa giảng, nói rằng: “Hãy xem ! Ánh sáng tốt lành rực rỡ, chiếu sáng cả Đại Thiên thế giới. Trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức đại hải, trăm ức núi Tu Di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, trăm ức bốn Châu thiên hạ, cho đến cõi Phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát hiện ra cùng một lúc. Các nhân giả ! Có thấy chăng ? Nếu thấy được, thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy. Không thấy được, đừng nói là ánh sáng tốt lành chẳng có chiếu soi. Hãy tham !”
Ai ai cũng đều có ánh sáng này. Vì sao Tổ Viên Chiếu thấy còn mọi người chẳng thấy ? Đó là ngộ với chẳng ngộ vậy. Pháp Tánh vốn khắp cả, vọng trần chẳng ngăn cách được. Cái Trí Cảnh vốn tròn đầy, thức tình nào ngăn ngại được. Nếu ngộ Tự Tâm, bèn biết hết thảy, đấy đều là việc trong nhà.
III. HAI THỨ CĂN BẢN
💥 THÔNG rằng
Bảy chỗ bày cái tâm, đều là chẳng phải, vì dùng Tâm Phan Duyên làm tự tánh.
Ông Anan cũng biết cái tâm này chưa được Vô Lậu, không chiết phục nổi chú Ta Tỳ La, mà còn bị nó chuyển.
Ông nói : “Nguyên do là vì không biết chỗ vào Chân Tế, là cũng đã lờ mờ trộm thấy cái Thể trong sạch của Bồ Đề Niết Bàn (Niết Bàn là Tịch Diệt), nên xin Phật chỉ bày. Do đó, Thế Tôn phân tích rõ ràng mà dạy cho. Trước, Phật đã dạy : Dùng các vọng tưởng, các tưởng này chẳng chân thật, nên mới bị luân chuyển. Điều đó, ở đây Ngài dạy : Dùng Tâm Phan Duyên mà làm Tự Tánh, đó là cái gốc rễ của sanh tử từ vô thủy đến nay vậy. Trước, Phật dạy: Đều chẳng biết cái Chơn Tâm chẳng sanh chẳng diệt, tánh nó chẳng ô nhiễm, thể nó vốn sáng suốt. Tức ở đây là : Bồ Đề Niết Bàn, vốn thể nó trong sạch, đó là gốc rễ chẳng sanh chẳng diệt xưa nay vậy.
Xoay chuyển nơi sống chết: Hoặc, Nghiệp, Khổ ba thứ này sanh ra, đồng nhau tụ hợp giống như chùm trái ác xoa. Không những Thiên Ma, ngoại đạo chắc chắn ở trong luân hồi, mà ngay cả Thanh Văn Duyên Giác tu tập lầm lộn, đều gọi là điên đảo.
Tại sao thế ? Vì lấy Sanh Diệt làm Nhân Địa tu hành vậy. Mà cái Nguyên Minh vốn sáng soi, sinh ra các duyên thì vốn tự chẳng sanh chẳng diệt, chỉ vì duyên theo cái Sở mà bỏ quên nó.
Như đoạn sau, kinh nói rằng “Tánh Nguyên Minh ấy chiếu mà sanh ra cái Sở. Cái Sở đã riêng lập thì Tánh Chiếu Soi bị bỏ quên”, thì ý chỉ cũng giống đoạn này. Đấy tức là nguyên do sanh ra các vọng tưởng, mà đã lạc vào vọng tưởng, bèn mất đi Bản Tánh. Quên mất cái Nguồn Gốc Sáng Suốt này, nên rơi vào các nẻo, mà không thành Bồ Đề Vô Thượng.
Có vị khách làm Thượng Thơ ra mắt Tổ Trường Sa.
Tổ Sa gọi: “Thượng Thơ !” Vị này lên tiếng dạ.
Tổ Sa nói: “Đã chẳng phải là bổn mạng Thượng Thơ đó sao ?”
Thượng Thơ rằng: “Chẳng thể lìa bỏ. Nhưng nay vừa đối diện, lại riêng có chủ nhân thứ hai rồi”.
Tổ Sa nói : “Gọi Thượng Thơ là Chí Tôn được không ?
Nói rằng : “Như thế, suốt cả khi không đối, đã không phải là chủ nhân của đệ tử sao ?”
Tổ Sa nói : “Chẳng phải chỉ khi đối hay không đối, mà từ đời vô thủy đến nay, đó là cái Căn Bản sanh tử của ông vậy”.
Lại tụng rằng :
Cái người học đạo chẳng biết Chân Chỉ bởi xưa nay nhận Thức Thần Gốc rễ tử sanh, từ vô thủy Kẻ si lại gọi Bổn Lai Nhơn
Học đạo chi nhơn bất thức Chơn Chỉ vị tùng lai nhân Thức Thần Vô thủy kiếp lai sanh tử bổn Si nhơn hoán tác Bổn Lai Nhơn
Như vậy thì chủ nhơn xưa nay, do đâu mà biết ???
Phẩm Xuất Hiện của kinh Tạp Hoa nói
“Phật tử, không có chúng sanh nào mà không vốn đủ Trí Huệ Như Lai, chỉ vì bám giữ lấy vọng tưởng điên đảo mà chẳng chứng(101) được. Nếu lìa vọng tưởng, thì Nhất Thiết Trí, Tự Nhiên Trí, Vô Ngại Trí, tự hiển bày trước mắt”.
Ngài Thiên Đồng tụng :
Trời che đất chở, nên khối, thành hòn Khắp pháp giới nhưng không bờ mé Chẻ lân hư mà không ở trong Nuốt trọn huyền vi Nào phân sau, trước Phật, Tổ đến đây trả nghiệp miệng Hỏi lấy Nam Tuyền, Vương Lão Sư (102) Người người ăn chỉ rau, một cọng
Đã là chuyện ai ai cũng có, sao chẳng thể cùng chứng Bồ Đề mà đến nỗi riêng thành Thanh Văn, Duyên Giác ?
Kinh Viên Giác nói: “Tất cả chúng sanh vọng thấy có lưu chuyển. Chán ghét lưu chuyển, lại vọng thấy có Niết Bàn. Do vậy mà chẳng nhập vào cái Giác vốn trong sạch. Chẳng phải Giác cản chống lại người-nhập. Vì, chỉ có người-nhập, chẳng phải cái Giác có sự nhập”.
Nhưng, biết chọn giữ lấy cái Căn Bản Không Sanh Không Diệt, ngoài sự đại triệt ngộ, thì không thể.
4. NƯƠNG CÁI THẤY, GẠN HỎI CÁI TÂM
💥 THÔNG rằng
Đây là lần dẫn dụ từng bước lần thứ hai của Thế Tôn. Ngài hỏi “Ông nay có thấy không ?”
Anan đáp “Thấy”.
Chỉ ở chỗ này mà đột nhiên tỉnh ngộ, bèn thấy Bản Tánh Nguyên Minh, chẳng cho phép luận bàn, chẳng đợi chỗ xếp đặt. Bồ Đề Niết Bàn vốn tự đầy đủ, vừa mống khởi phân biệt đã lọt vào tỷ lượng(103), bị buộc vào sự sai sử của Lục Thức, chìm sâu vào trí thức, bỏ mất Chân Tánh xa lắm vậy. Cho nên Phật mới quở rằng “Cái đó chẳng phải là tâm của ông”. Nếu trong khi bị quở, rỗng rang mà tự mất bặt, bỗng nhiên hồi quang, thì ngay liền đó là Bổn Giác tự tại. Chứ sao lại nói “Rời cái Hay Biết (Giác Tri) đó, thì hoàn toàn không có gì” ? Cái giác tri đó, đối đãi với Trần Tướng trước mắt mà có phân biệt, trần mất thì không có nữa, nên gọi là “Cái Tưởng hư vọng bám chấp lấy tướng”. Còn cái Bổn Giác thì chẳng nương theo Trần mà sanh diệt theo, nên mới gọi là Chân Tánh. Nhưng Chân Tánh chỉ có một mà thôi. Vì cái giác tri này che đậy cái Bổn Giác trước mắt, nên cái giác tri ấy thật là tên giặc của Bổn Giác. Nếu nhận cái giác tri đó làm Tự Tâm, tức là nhận giặc cướp làm con, bỏ cái chẳng sanh diệt mà ôm lấy cái sanh diệt, thì sự luân chuyển còn nghi ngờ gì. Tuy nhiên, lìa cái giác tri hay biết này mà tìm riêng cái Bổn Giác ở nơi khác, lại không thể được.
Ngài Thiên Đồng nêu sơ lược rằng : “Nếu cái hay suy nghĩ đó là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!”
Ngài Tu Sơn Chủ nói: “Nếu cái hay suy nghĩ đó chẳng phải là tâm của ông, tức là nhận giặc làm con!”
Ngài Thiên Đồng đưa ra rằng : “Như giờ hãy xét là con, là giặc : mua nón vừa đầu, ăn cá bỏ xương”.
Bèn như Thiên Đồng, lại chọn lựa không ?
Đức Lục Tổ(104) dạy : “Phàm phu tức là Phật, phiền não tức là Bồ Đề. Niệm trước mê là phàm phu, niệm sau ngộ là Phật. Niệm trước bám cảnh là phiền não, niệm sau lìa cảnh, tức là Bồ Đề”. Điều này cũng như nói lật sấp lật ngữa cũng là bàn tay vậy.
Ngài Vĩnh Gia nói : “Thật tánh của Vô Minh tức là Phật Tánh. Huyễn hóa không thân tức Pháp Thân”. Quả là tỏ suốt cái cửa Bất Nhị vậy.
💥 THÔNG rằng
Ông Anan tình thức và sở kiến khô kiệt, mới nói là “Không có Tâm”, giống như gỗ đá. Chỗ này chính là nên thừa thọ đảm đương, thì đỡ được biết bao tâm lực. Sá gì một cái giác tri mà cứ ôm giữ lấy, sao chẳng chịu bỏ quách.
Xưa, thầy Đại Lãng, mới đầu đến tham vấn Đức Mã Tổ.
Ngài hỏi : “Đến đây cầu gì ?” Đáp : “Cầu Tri Kiến Phật”.
Tổ nói rằng : “Phật không có tri kiến, tri kiến (105) là Ma. Ông từ đâu tới ?”
Bạch rằng : “Từ Nam Nhạc (106) đến”.
Tổ nói rằng : “Ông từ Nam Nhạc đến, mà chưa biết tâm yếu của Tào Khê (107). Ông mau trở về đó, chẳng nên đi nơi khác”.
Thầy Lãng trở về Tổ Thạch Đầu, bạch hỏi : “Thế nào là Phật ?”
Tổ Thạch Đầu (108) nói rằng : “Ngươi không có Phật Tánh”.
Thầy Lãng nói rằng : “Các loài cựa quậy, bay nhảy lại ra làm sao ?”
Tổ Đầu nói : “Các loài cựa quậy, bay nhảy đều có Phật Tánh”.
Bạch rằng : “Huệ Lãng này vì sao không có ?”
Tổ Đầu nói : “Vì ông không chịu nhận lãnh”.
Thầy Huệ Lãng nghe xong, tin nhập. Về sau, hễ có người học đạo đi đến, đều nói rằng: “Đi đi ! Ngươi không có Phật Tánh”.
Sự tiếp cơ dạy dỗ đại khái như thế. Há đâu phải lìa cái giác tri là không có gì nữa sao ?
💥 THÔNG rằng
Chỗ các pháp sanh ra, là độc chỉ do tâm biến hiện, như bóng hình trùng trùng đều độc chỉ trong cái gương hiện bày ra. 6 trần như hình, cái phân biệt (Thức Tâm) như bóng. Bóng nhờ hình mà có, tâm thức nhờ cái trần mà có. Cái này đây ắt là sự phân biệt bóng dáng tiền trần (110). Dao động thuộc về tiền trần, yên tịnh thuộc về pháp trần. Cho nên, ở trong giữ cái trống rỗng u nhàn thì tuy không có bóng dáng tiền trần nhưng vẫn còn cái bóng dáng trống rỗng u nhàn, đó còn là sự phân biệt bóng dáng của pháp trần.
Cái chấp ấy là cái Thức, mà chẳng phải là cái Bổn Giác Chân Tâm Thường Trụ. Chân Tâm Thường Trụ lìa khỏi tất cả phân biệt, như cái gương lớn tròn sáng (111) lìa khỏi cả hai thứ Động (sáu Trần) và Tỉnh (Thức). Cái Tâm này vốn tự không nhiễm, nên nói là Tịnh, nhiễm mà chẳng nhiễm, nên nói là Diệu Tịnh. Tất cả nhân quả, thế giới nhiều như vi trần, nhân nó mà lập thành, nó cũng là cái Bổn Tánh của vọng tâm tạo thành chín Cõi(112). Nên nói là cái Tánh của cả thảy Tâm. Nếu thấy Tâm này, thì lìa phân biệt mà an trụ Tự Tánh, đó là cái Tự Tánh không tùy theo phân biệt mà hoặc có hoặc không. Sắc lìa Thức phân biệt như trần lìa bóng, liền là Bản Thể của gương, Thể của gương không theo bóng của trần mà sanh mà diệt. Nếu chấp cái Giác Tri Phân Biệt làm Tự Tánh, tức là chấp bóng làm gương vậy. Cái Hay Biết Phân Biệt đó, đối với trần thì có, lìa trần thì không, như bóng trong gương, vốn không tự thể, rốt là đoạn diệt, như thế làm sao chứng Vô Sanh ? Cho nên, phải biết cái Tâm tự có bản thể, chẳng phải đoạn diệt.
Đoạn trước, Phật quở “Cái đó chẳng phải là Tâm ông”, vì cái chỗ Ông Anan nhìn nhận chỉ là cái tâm đoạn diệt giả dối, chẳng phải là cái tâm Xưa Nay Chân Thật vậy. Chứ đâu phải thật không có tâm ư ?
Tổ Huyền Sa (113) Sư Bị thượng đường rằng : “Hiện có một thuyết cho là : linh linh, sáng sáng là cái Trí Tánh linh đài, hay thấy, hay nghe, hướng vào trong miếng ruộng-thân ngũ uẩn làm chủ tể. Đó là kẻ dối gạt lớn của thiện trí thức, biết chăng ? Ta nay hỏi các ông, nếu nhận cái linh linh sáng sáng đó là cái Chân Thật của các ông, thì tại sao khi ngủ mê, lại chẳng còn là sáng sáng linh linh nữa ? Nếu lúc ngủ mê chẳng có thì tại sao lại có cái lúc sáng sáng, linh linh? Có hiểu chăng ?
Cái đó gọi là nhận giặc làm con, là căn bản của sanh tử, tập khí duyên ra Vọng Tưởng. Các ông muốn biết căn do ư ?
Ta nói cho nghe: Cái sáng sáng linh linh chỉ do tiền trần Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp mà có phân biệt, rồi nói bậy đó là cái sáng sáng linh linh. Nếu không tiền trần, thì cái sáng linh linh này của các ông, cũng như lông rùa sừng thỏ.
“Này các ông, cái Chân Thật ở tại chỗ nào? Nay các ông muốn thoát khỏi cái chủ tể của ruộng thân ngũ uẩn, chỉ cần biết nắm lấy cái Thể Kim Cang Bí Mật của các ông. Cổ nhân hướng về các ông mà nói : Trọn thành Chánh Biến, khắp đầy Pháp Giới. Nay ta chút phần vì các ông, người Trí có thể qua thí dụ mà hiểu được. Các ông có thấy mặt trời của Nam Diêm Phù Đề không?
Cái chỗ sanh sống của người đời : làm lụng, kinh doanh, nuôi sống sinh mạng, đủ thứ tâm hành, không gì chẳng nhờ ánh sáng mặt trời mà thành lập. Vậy mà cái thể của mặt trời có chăng bấy nhiêu tâm hành ? Vậy mà có chỗ nào mà không cùng khắp ?
“Muốn biết cái Thể Kim Cang, cũng phải nhìn như thế. Chỉ như hiện đây, núi sông, đất rộng, mười phương cõi nước, sắc không, sáng tối, cho đến thân tâm các ông, không có cái gì mà chẳng trọn nhờ cái Oai Quang Viên Thành ấy của các ông mà hiển bày. Ngay đến Trời, người, chúng sanh, Nghiệp Báo, Hữu Tình, Vô Tình không có cái gì chẳng trọn nhờ cái Oai Quang của các ông. Cho đến chư Phật, thành Đạo, thành Quả, tiếp vật lợi sanh, không gì mà chẳng trọn nhờ Oai Quang của các ông. Như cái Thể Kim Cương ấy, có phàm phu cùng chư Phật không ? Có tâm hành của các ông không ? Không thể nói là không có, bèn tận dụng được vậy. Biết không ?” Tổ Huyền Sa nhờ xem Lăng Nghiêm mà phát minh tâm địa.
Do đó, Ngài ứng cơ nhạy bén, thầm hợp với khế kinh. Đoạn Ngài nói ở trên, mỗi mỗi đều chẳng khác ý chỉ của kinh, cho đến nói “Tất cả đều nhờ vào lực của Oai Quang”, cùng với câu kinh “Các pháp sinh ra là duy một tâm hiện” lại càng thần diệu.
Lại nữa, Tổ Trúc Am Khuê(114), kế pháp của Tổ Phật Nhãn, cùng với người bác là cư sĩ Trì Nhất, cùng thích Lăng Nghiêm.
Tổ Trúc Am Khuê nói : “Nếu rời tiền trần mà có tánh phân biệt, đó chính là căn bản của sanh tử”.
Cư sĩ hoảng hồn, nói : “Phật nói lầm hay sao ?”
Tổ Am nói : “Phật cố nhiên là không lầm. Nhưng hiện giờ cái tâm đối diện hỏi han của cư sĩ quả thật ở đâu ?”
Cư sĩ bèn tán thán rằng : “Phật nói : hiểu cái Đệ Nhất Không, gọi là Sư Tử Hống, Ngài làm rồi mà không vướng mắc đấy”.
Tổ Am, sau đó thượng đường mà rằng : “Khi thấy mà có tướng thấy, cái thấy ấy chẳng phải là cái Thấy Chân Thật (Chánh Kiến). Thấy do lìa tất cả tướng thấy, cái thấy ấy là siêu việt (Giải Thoát)(115). “Hoa rơi hữu ý theo giòng nước. Giòng nước vô tình đưa hoa rơi”. Các thứ có thể trả về được dĩ nhiên chẳng phải là ông. Còn ông không thể trả về được, nếu chẳng phải là ông, thì là ai ? “Thường hận xuân đi không chỗ kiếm. Chẳng hay trở lại chốn xưa ra”. Hét lên một tiếng mà rằng : “Ba mươi năm sau, chớ nói Phật, Tổ dạy hư con cái nhà người !”
Theo chỗ thấy của Tổ Trúc Am, thì lìa tiền trần cũng không có cái Tự Tánh Phân Biệt nào nữa để được. Người tự
210
khéo chuyển Lăng Nghiêm thì một đoạn chân phong “Thấy do lìa thấy, thấy ấy siêu việt” có thể cùng với Tổ Huyền Sa đồng tham vậy.
5. CHỈ RÕ TÍNH THẤY KHÔNG PHẢI LÀ CON MẮT
💥 THÔNG rằng
9 bậc Định thì sau này có nêu ra: Tứ Thiền, Tứ Không… nhưng chỉ nói quả vị mà không nói cách tu. Đây nói là người tu hành 9 bậc Định thứ lớp, vì từ một bậc thiền này sang bậc thiền kia, theo thứ tự mà tu. Như Đại Bát Nhã nói “Lìa Dục, Ác, Bất Thiện Pháp, có tìm có xét. Lìa thì sanh Hỷ, Lạc, nhập Sơ Thiền. Tìm, xét đã vắng lặng, trụ ở trong tâm trong sạch hoan hỷ. Không tìm, không xét nghĩ, Định sanh ra Hỷ, Lạc, nhập Nhị thiền. Lìa Hỷ trụ Xả, đầy đủ niệm chánh tri, thân thọ lãnh sự vui trong sạch bậc Thánh, nói được xả được, đầy đủ niệm lạc trụ nhập Tam Thiền. Dứt vui dứt khổ, trước là cái vui vẻ, lo buồn biến mất, không Khổ không Lạc, niệm Xả thanh tịnh, nhập Tứ Thiền. Vượt lên cả Sắc Tưởng, diệt tưởng có đối tượng, chẳng tư duy hết thảy các Tưởng, nhập vào Không Vô Biên là Không Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Không, nhập Thức Vô Biên là Thức Vô Biên Xứ Định. Vượt lên tất cả Thức Vô Biên, nhập Vô Sở Hữu Xứ Định. Vượt Vô Sở Hữu Định, nhập Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Vượt tất cả Phi Tưởng Phi Phi Tưởng, nhập Diệt Thọ Tưởng Định”.
Đó là 9 phép Định theo thứ lớp, đều là cái công dụng Hữu Vi, ưa thích thiện quả hữu vi nên nói là “Mê những cõi Trời hữu lậu, hiểu đấy là vô vi”. Vì cái mê chấp ấy, nhập vào cái thức vi tế sanh diệt vọng tưởng mà tu, chưa thể thấy được Chân Tánh Vô Sanh, Hiện Tiền Tịch Diệt (Niết Bàn) chính là Pháp Vô Vi Chân Thật, nên chưa được hết hữu lậu. Như bậc Đại A La Hán, đã chứng Diệt Thọ Tưởng Định, nên gọi là Vôâ Lậu. Nay tại sao trong chín cấp Định thứ lớp cũng chứng Diệt Thọ Tưởng Định mà lại gọi là hữu lậu ? Vì có vọng tưởng mà chứng Niết Bàn, nên dù có được Diệt Tận Định vẫn chưa phải là chân thật.
Tổ Hoàng Bá nói rằng : “Cả thảy chúng sanh luân hồi, sanh tử chẳng ngừng nghỉ là do ý duyên khởi tạo cái tâm trong 6 nẻo chẳng ngừng, đến nỗi khiến chịu bao nhiêu thứ khổ.
“Kinh Duy Ma nói : Loài người khó dạy, tâm như khỉ vượn, nên phải dùng biết bao pháp môn để chế ngự tâm này, sau mới điều phục. Bởi vì tâm sanh thì thảy thảy pháp sanh, tâm diệt thì thảy thảy pháp diệt.
“Cho nên, phải biết rằng tất cả các pháp đều do tâm tạo, cho đến Trời người sáu nẻo, địa ngục, Tu La đều do tâm tạo. Như nay chỉ học Vô Tâm, dứt ngay các duyên, không sanh vọng tưởng phân biệt, không người không ta, không Tham, Sân, không Yêu Ghét, không Hơn Thua. Chỉ cần trừ bỏ hết bấy nhiêu thứ vọng tưởng, thì Tự Tánh vốn xưa nay vẫn là trong sạch, đó gọi là tu hành Bồ Đề, Pháp, Phật…(117). Nếu chẳng hiểu như thế, thì dù cho học rộng, cần khổ tu hành, ăn cây mặc cỏ, mà chẳng biết Tự Tâm, đều gọi là tà hạnh, đều làm Thiên Ma ngoại đạo, các thần đất, nước. Tu hành mà thế, nào có ích gì ?”
Tổ Chí Công dạy : “Bản thân là do tâm tạo ra, nào phải trong chữ nghĩa tìm cầu. Như hiện giờ chỉ rõ biết Tự Tâm, tuyệt dứt tư duy vọng tưởng thì trần lao, phiền não tự nhiên chẳng sinh”.
“Kinh Duy Ma nói : Chỉ để một cái giường, nghỉ ngơi tật bệnh mà nằm, là tâm chẳng khởi vậy. Như người nằm bệnh, các duyên đều hết, vọng tưởng tiêu ma, đó là Bồ Đề.
“Còn nếu giờ đây trong tâm phân vân chẳng định, thì dầu cho có học đến Tam Thừa, Tứ Quả, Thập Địa cũng chỉ là hướng trong phàm Thánh mà ngồi. Các hành trọn quy về vô thường, thế lực đều có lúc hết. Như bắn tên lên không, hết đà rơi xuống, lại rơi vào vòng sanh tử luân hồi. Tu hành kiểu đó là chẳng hiểu ý Phật, uổng công nhọc mệt, há chẳng là lầm to ?”
Tổ Chí Công lại nói : “Chưa gặp bậc
Minh Sư ra đời, uống thuốc pháp Đại Thừa cũng uổng”.
Than ôi ! Thuốc pháp Đại Thừa còn chẳng thể giúp, huống là chín bậc Định thứ lớp ? Nên phải biết: tu tập lầm lạc, khó thành quả Thánh.
💥 THÔNG rằng
Bỏ cha trốn đi thì ở kinh Pháp Hoa cũng có ví dụ. Cùng đường ở phương xa, mong được chỉ cho hạt châu trong áo, dần dần có ý muốn về nhà.
Hai cái Chướng là Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Phiền Não Chướng thì chướng ngại tâm, tâm chẳng giải thoát, kết nghiệp mà thọ quả báo. Sở Tri Chướng ngăn trở cái Tánh Sáng (Huệ). Tánh Sáng bị buộc ràng, chẳng hiểu Pháp Không vậy.
Anan biết rõ bị hai Chướng ràng buộc, lại cũng biết cái gọi là Tâm Tánh Tịch Thường, cớ sao con Mắt Đạo chẳng mở ra ? Thấu thoát quả là khó khăn lắm vậy.
Có nhà sư bạch hỏi Tổ Dược Sơn : “Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào ?”
Tổ Sơn nói: “Cha mẹ ông khắp mình sưng đỏ, nằm trong rừng gai góc, ông về chỗ nào ?”
Sư hỏi: “Như thế tức là chẳng về ư ?”
Tổ rằng: “Ông lại cần phải về. Nếu ông về ta chỉ cho ông món ăn làm thuốc tốt đẹp để đi đường”.
Sư rằng: “Xin nói”.
Tổ Sơn nói: “Hai buổi thượng đường, không cắn bể một hột gạo”.
Sau, có vị sư bạch hỏi Tổ Lạc Phổ: “Kẻ học nhơn định trở về quê thì như thế nào ?”
Tổ Phổ rằng: “Nhà tan, người mất, ông về chốn nào ?”
Sư rằng: “Như vậy tức là chẳng về ư ?”
Tổ Phổ rằng: “Trước sân tuyết sót (tuyết tàn), mặt trời tan. Trong thất bụi hồng, ai bảo quét”.
Lại đọc bài kệ:
Lòng quyết về quê cũ Cỡi thuyền qua Ngũ Hồ Nhổ sào trăng sao lặn Dừng chèo mặt trời cô Mở neo lìa bến ngụy Trương buồm ra dòng Chơn Đến nơi, người mất sạch Khỏi làm đứa ngu (trong) nhà
Tổ Đơn Hà tụng rằng :
Quê nước thái bình nẻo chẳng xa
Về, hứng miên man, ý vô bờ
Buông tay, nhà đến : nơi nào có?
Bóng trăng lồng điện báu lưu ly
Thái bình hương quốc lộ không xa
Quy hứng du tu tư mạc nhai
Tát thủ đáo gia hà xứ hữu
Lưu ly bảo điện tỏa thiềm hoa
Các vị lão túc một phen chỉ ra phương tiện về nhà. Đáng gọi là con mắt Đạo mở sáng, thật biết cái Tâm Tánh Tịch Thường vậy.
💥 THÔNG rằng
Trước thì từ mặt phóng ra ánh sáng, mười phương cõi nước đồng thời khai hiện, khiến tất cả thế giới hợp thành một cõi, là biểu thị Chân Vọng chẳng hai. Chỉ bày hai loại Căn Bản, thì lấy Đoạn Vọng làm đầu vì vọng tưởng chẳng dứt thì dù đến chín bậc Định thứ lớp cũng chẳng thành quả Thánh. Cái mặt mũi ấy có thể nghiệm xét mà thấy như soi gương vậy. Nay từ chữ VẠN ( ) ở ngực phóng ra ánh sáng, rưới đảnh của chư Như Lai rồi trở về chiếu Anan và đại chúng, là biểu thị Thánh phàm chẳng hai. Chỉ bày rằng tiền trần tự tối, cái Thấy nào có thiếu hụt. Nhẫn đến cái đầu tự động chao, cái Thấy hoàn toàn chẳng động. Bàn tay tự mở, nắm; cái Thấy không có trải ra, cuốn lại. Đó là chỉ ra một đường hướng thượng, người người sẵn đủ, khả dĩ an ấn (truyền pháp yếu) vậy.
Xưa, Tổ Ngưỡng Sơn đang ngồi, có vị tăng đến làm lễ. Tổ Sơn chẳng đoái hoài.
Vị tăng mới hỏi Tổ : “Biết chữ chăng ?”
Tổ đáp : “Tùy phận”.
Tăng bèn đi quanh phía phải một vòng rồi nói : “Đó là chữ gì ?”
Tổ Sơn vẽ trên đất chữ thập đáp lại. Vị tăng lại đi quanh phía trái một vòng rồi hỏi : “Đó là chữ gì ?”
Tổ Sơn đổi chữ thập thành chữ Vạn.
Vị tăng vẽ tướng vòng tròn, rồi dùng hai tay nâng lên như bàn tay của Tu La trong thế Nhật Nguyệt, nói : “Đây là chữ gì ?”
Tổ Sơn bèn vẽ tướng ??? đáp lại.
Vị tăng làm ra cái tướng Đức của Phật Lâu Chí.
Tổ Sơn rằng : “Như thế, như thế. Đây là chỗ hộ niệm của Chư Phật. Ông cũng như thế, ta cũng như thế. Hãy khéo tự hộ trì”.
Vị tăng lễ tạ, bay lên không mà đi mất. Lúc ấy, có một vị đạo nhân thấy được. Sau đó năm ngày, bạch hỏi Tổ Ngưỡng Sơn.
Tổ hỏi : “Ông có thấy không ?” Đạo giả đáp : “Tôi thấy người ấy ra cửa phòng lên không đi mất”.
Tổ rằng : “Đó là vị A La Hán bên Tây Thiên, đến thử đạo ta đó”.
Đạo giả nói : “Tôi tuy thấy đủ thứ Tam Muội mà chẳng rành rẻ cái Lý”.
Tổ Ngưỡng Sơn rằng : “Để tôi vì ông dùng nghĩa mà giải thích ra. Đây là tám loại Tam Muội : ấy là Giác Hải(118) biến làm Nghĩa Hải(119), Thể đồng như nhau. Cái Nghĩa này có Nhân có Quả; Tức Thời, Khác Thời; Tổng Tướng, Biệt Tướng chẳng rời Ẩn Thân Tam Muội”.
Nếu biết cái Tam Muội Giác Hải biến ra Nghĩa Hải của Ngài Ngưỡng Sơn, thì chữ Vạn nơi ngực của Phật phóng ra ánh sáng quý báu cũng là Diệu Dụng trong cái Bất Tư Nghì, ắt phải được cái Tâm Tánh Diệu Mật Sáng Sạch làm cội gốc vậy.
Tổ Quy Sơn từng hỏi Tổ Ngưỡng Sơn :
“Chỗ Diệu Tịnh Minh Tâm, theo ông hiểu làm sao ?”
Tổ Ngưỡng đáp : “Núi sông đất đai, nhật nguyệt tinh tú”.
Tổ Quy nói : “Ông chỉ được cái Sự”. Tổ Ngưỡng rằng : “Hòa Thượng vừa hỏi cái gì đó?”
Tổ Quy : “Cái Diệu Tịnh Minh Tâm”.
Tổ Ngưỡng : “Kêu là cái Sự không được sao ?”
Tổ Quy rằng : “Như thế, như thế”. Chỉ do Tổ Ngưỡng Sơn hiểu được cái Diệu Tịnh Minh Tâm, được con mắt trong sạch, cho nên cái Tam Muội rõ nghĩa chữ (Tự Tam Muội), vượt xa hẳn tầm thường.
💥 THÔNG rằng
Đây là lần dẫn dụ từ từ thứ ba của Thế Tôn, có thể nói là tâm Lão Bà (120) quá tha thiết. Trước đã hỏi “Ông lấy gì thấy ?” Ông Anan trả lời “Đều lấy mắt mà thấy” để rồi bị Phật quở nhận giặc làm con. Đến đây hỏi lại “Ông lấy gì thấy ?”, chính là muốn Ông Anan hồi quang phản chiếu để hốt nhiên thấy được cái Kiến Tính Minh Nguyên(121), chẳng do con Mắt. Tiếc thay, ông chẳng tỉnh ngộ được.
Có vị tăng đứng hầu Tổ Trường Sa. Tổ lấy gậy chỉ trên đất trước mặt một điểm bất kỳ nào đó rồi hỏi : “Có thấy không ?”
Đáp rằng : “Thấy”.
Hỏi như vậy ba lần, vị tăng cũng ba lần trả lời như vậy.
Tổ Sa nói : “Ông cũng thấy ta cũng thấy. Vì sao lại nói là không hiểu ?” Ngày khác, lại lấy cây gậy cắm trên đất, hỏi Tổ Trường Sanh : “Tăng thấy, tục thấy, nam thấy, nữ thấy, còn ông thấy làm sao ?”
Đáp rằng : “Hòa Thượng có thấy Kiến Xưù (chỗ thấy) của Kiểu Nhiên (Trường Sanh) không ?”
Tổ Trường Sa nói : “Người hiểu nhau khắp thiên hạ, nhờ có câu trả lời này của Kiểu Nhiên, bèn cùng Huyền Sa thấy mặt !”
Phải chi Ông Anan tự biết cái Kiến Xứ ấy chẳng có cái Kiến (Thấy) nào đến được, thì đâu đến nỗi Thế Tôn phải cực nhọc lắm lời !
💥 THÔNG rằng
Vì sao Đức Thế Tôn lại lấy người mù làm ví dụ ? Bởi vì, Ông Anan chấp chặt lấy cái Thấy của con mắt làm cái Thấy Chân Thật, vậy là chẳng rời Căn và Trần, mà Thức sanh ra ở giữa.
Người mù không có mắt, sao cũng thấy tối thui ? Do đó, có thể biết rằng : chờ có Nhãn Căn mới thấy, đó là cái thấy của tiền trần phân biệt, chẳng phải là cái thấy của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch(122) vậy. Tiền trần phân biệt thuộc Thức Thứ Sáu, nên mắt còn thì nó còn, mắt mất thì nó mất, nên phải chờ có Căn thì mới hiện ra được.
Cái ánh sáng trong sạch của Tâm, chẳng đợi đến cái Căn mà còn, chẳng tùy theo Căn mà diệt, nên nó là không sanh diệt. Đó là cái Thấy không sanh diệt của cái Vốn Xưa Nay Trong Sạch ai ai cũng sẵn đủ. Chẳng phải vì không có mắt mà người mù không có.
Ông Anan chấp chặt là chỉ có con mắt mới thấy, thì đó là cái Căn sanh diệt. Thế Tôn chỉ ra cái Thấy không hề thiếu hụt, đó là cái “Căn” không sanh không diệt. Đánh thức như thế, có thể nói là đã cùng cực.
Xưa, tướng quốc Thôi Công Quần ra mắt Tổ Như Hội thiền sư, hỏi rằng : “Thầy lấy gì mà được ?”
Tổ Hội trả lời : “Lấy Tánh Thấy mà được”.
Tổ Như Hội đang bị đau mắt.
Ông Quần chọc rằng : “Đã nói là Tánh Thấy, còn con mắt thì sao đó?”
Tổ Hội rằng : “Tánh Thấy chẳng phải là con mắt, con mắt bệnh nào có hề gì !”
Ông Quần bèn cúi đầu tạ lỗi.
Sau này, Tổ Pháp Nhẫn nói rằng : “Con mắt ấy của Tướng Công há thấy được chỗ trả lời của Tổ Như Hội, mà còn can thiệp đến giáo ý hay sao ?”
💥 THÔNG rằng
Đây là Đức Thế Tôn phân tích rõ ràng, nên nói là “Xác thật bảo ông”. Đèn và con Mắt, đều là cái duyên cho sự thấy, thể của chúng chẳng phải Hay Thấy. Cái Hay Thấy là tâm vậy. Ở trước, nói “Cửa có thấy không ?” là đã đủ nghĩa này. Ở đây, lại lấy ngọn Đèn ví dụ là con mắt, lấy Mắt mà so với Tâm. Đèn không thể thấy, Mắt có thể thấy được sao ? Cái Thấy của con Mắt chẳng phải là Tánh Thấy. Nếu sáu Căn có thể dùng thay nhau, thì Tai cũng thấy được vậy, đâu phải chỉ có mắt mới thấy. Chỗ Ông Anan nói : “Quả thật tôi dùng con mắt mà thấy” thì rõ ràng chấp lấy Vọng mà làm cái Chơn. Nếu biết đèn chỉ có thể hiển cái sắc còn cái Năng Kiến thuộc về con mắt, thì đã lìa Sở Vọng. Lại biết mắt chỉ hiển sắc, còn Tánh Thấy thuộc về Tâm, thì lìa luôn cả cái Năng Vọng. Năng, Sở đều lìa, duy chỉ một Tâm. Tâm siêu vượt khỏi con mắt nên không sanh diệt. Dùng cái Thấy không sanh diệt mà thấy nắm tay của Như Lai thì chưa từng không thấy. Nhưng không thể nói là con mắt thấy.
Xưa, thiền sư Khô Mộc(123) Tổ Nguyên(124) theo học Ngài Đại Huệ(125) ở am Vân Môn. Trời sắp tối, thấy vị tăng sửa soạn đèn mới tỏ ngộ thấu đáo, làm bài kệ rằng :
“Vừa soạn đèn là lửa đến Vô Minh bao kiếp soi phá Về nhà đụng gặp Thánh Tăng Suýt nữa đối mặt lầm qua Chẳng lầm qua thì thế nào ? 15 trước tưởng lạ kỳ Y xưa, chỉ là cái đó !”.
Dịch khởi đăng lại thị hỏa Lịch kiếp Vô Minh chiếu phá Quy đường chàng kiến Thánh tăng Kỷ hồ đương diện tạ quá Bất tạ quá, thị thậm ma Thập ngũ niên tiền kỳ đặc Y tiền chỉ thị giá cá
Ngài Đại Huệ bèn tặng cho một bài kệ :
“Vách núi muôn tầm, giải phóng thân Xưa nay như cũ, vẫn minh minh Đói ăn khát uống toàn vô sự
Há luận người xưa, chẳng phải xưa !”.
(Vạn nhận nhai đầu giải phóng thân Khởi lai y cựu khước tinh tinh Cơ xan khát ẩm hồn vô sự
Há luận tích nhơn phi tích nhơn).
Ôi, việc sửa soạn đèn đâu có ăn nhằm gì tới chuyện tu thiền mà lại tỏ ngộ.
Thế mới biết Thế Tôn nói rằng cái thấy đó là con mắt chớ chẳng phải đèn; cái Tánh Thấy là Tâm chớ chẳng phải con mắt. Nên Ngài Tổ Nguyên mới nói vừa soạn đèn là lửa đến. Như cách vách thấy sừng thì biết chắc là trâu. Phải triệt chứng như thế mới gọi là Thấy Tánh.
💥 THÔNG rằng
Đức Thế Tôn lời thật chỉ bày rõ ràng mà Ông Anan và đại chúng còn chưa khai ngộ cũng vì cơ duyên chưa dễ nhóm tụ. Do lòng từ bi, Đức Thế Tôn còn e lời nói vi diệu chưa dễ hiểu được. Nhưng trong hàng tỳ kheo cũng có vị đã hiểu ngộ rồi, vậy thì dùng chỗ đã hiểu biết dìu dẫn cho hiểu biết thì dễ dàng ngộ nhập. Bởi thế nên dạy các vị tỳ kheo mỗi vị tự thuật lại nguyên do khai ngộ để Ông Anan dễ lãnh ngộ. Đoạn sau, hai mươi lăm vị Thánh thuật lại chỗ chứng Viên Thông của mình cũng là dùng cách này. Ở đây là Biết Vọng sau mới Chứng Chơn, không phải không có chỗ sâu cạn khác nhau, nhưng phương tiện dắt dẫn chỉ là một.
Nói rằng “Chẳng thành Bồ Đề đều do phiền não khách trần làm mê lầm”, đó chính là sự đắp đổi hóa thành lẫn nhau của hai loại căn bản sanh tử, tỏ ngộ cũng không dễ.
Có vị tăng hỏi Ngài Nam Dương Huệ Trung quốc sư : “Cái gì là Phật ?”
Tổ đáp : “Tức Tâm là Phật”.
Hỏi : “Tâm có phiền não không ?”
Tổ rằng : “Phiền não, tánh tự lìa(126)”.
Tăng rằng : “Há chẳng đoạn trừ sao ?”
Tổ đáp : “Đoạn trừ phiền não, kêu bậc Nhị Thừa. Phiền não chẳng sanh, gọi đó là Đại Niết Bàn”.
Tăng hỏi : “Ngồi thiền khán tịnh thì như thế nào?”
Tổ đáp : “Không dơ không sạch thì đâu cần khởi tâm khán tướng tịnh ?”
Kinh Di Lặc Thượng Sanh nói : “Không khởi tu thiền định, không vọng trừ phiền não. Phật thọ ký cho người này thành Phật không nghi”.
Học sĩ Trần Tú Ngọc có lần hỏi Tổ Vạn Tùng(127) rằng : “Đức Di Lặc Bồ Tát vì sao chẳng tu thiền định, chẳng dứt trừ phiền não ?”
Tổ Tùng đáp : “Chân Tâm vốn tịnh, nên chẳng tu thiền định. Vọng tưởng vốn không, nên chẳng dứt lìa phiền não”.
Học sĩ lại đem câu này hỏi Ngài Hương Sơn Đại Nhuận Hòa Thượng. Ngài đáp : “Tâm Thiền vốn định, chẳng trở lại tu. Phiền não tịch diệt, chẳng cần lại đoạn”.
Học sĩ lại đem hỏi Ngài Trúc Lâm Hải Cự Xuyên. Tổ Xuyên đáp : “Vốn không có thiền định, phiền não !”
Học sĩ nói : “Chỉ có thế này mới khoái !”
chỗ này mà tin tới được, mới biết việc chỉ bày ở Lộc Viên chỉ vì người mới học.
6. Ý NGHĨA CHỦ VÀ KHÁCH
💥 THÔNG rằng
Khách là thí dụ cho cái thô trọng của Sở Tri; Trần là ví dụ cho cái vi tế của phiền não. Niệm niệm đổi dời, sanh ra rồi diệt mất chẳng ngừng, nên thí dụ như khách đi đường vào trọ quán xá. Khởi lên sự mê lầm, gây ra nghiệp, bỏ cũ theo mới, nên thí dụ là ăn, ngủ xong thì thu dọn lên đường. Cái Chân Tánh Thường Trụ vốn chẳng có chuyện ấy, nên thí dụ như người chủ chẳng đi đâu cả. Thô chướng thì dễ trừ mà cái mê lầm vi tế thì khó biết, nên phải do bầu trời Bản Tánh tạnh ráo sáng trong có mặt trời Trí Huệ soi chiếu, qua khe hở của Ngũ Ấm soi rõ Bản Tánh rỗng trống, mới biết hư vọng tự rối động ở trong. Do đó, mới lấy thí dụ “Trời tạnh, mặt trời chiếu sáng, ánh sáng vào trong lỗ hở, phát hiện rõ ràng bụi bặm trong hư không”.
Phiền não thì rối động. Chân Tánh vốn tịch nhiên. Như ngộ được là vốn không, thường trụ chẳng động, tức biết Tâm Tánh thường tịch vậy.
Tổ Triệu Châu nói : “Các ông từ một phen thấy lão tăng trở về sau, lại chẳng phải là người nào khác, chỉ thật là người chủ nhân ông. Cái ấy đây lại hướng ra ngoài tìm kiếm làm chi ? Chính lúc này đây, chớ chuyển đầu đổi não. Nếu chuyển đầu đổi não tức mất ngay vậy”.
Lại một hôm, Ngài đang quét đất, có vị tăng hỏi: “Hòa Thượng là bậc đại Thiện Tri Thức vì sao lại còn quét đất ?”
Tổ Châu nói rằng : “Bụi từ ngoài đến”. Tăng hỏi : “Đã là chốn Già Lam trong sạch, làm sao có bụi ?”
Tổ Châu nói : “Lại một hạt bụi nữa kìa”.
Ngài Triệu Châu, ánh sáng con mắt Ngài soi nát bốn châu thiên hạ, biện rõ nghĩa Khách Trần, chẻ vào thấu cái nhỏ nhiệm. Nếu ở chỗ này mà soi ra được rành rẽ, thì quả thật là vị Sa Di có chủ, ở đời chẳng nhiễm, chứ đâu chỉ được mang tiếng là Giải(128).
💥 THÔNG rằng
Ông Kiều Trần Na nhờ ngộ hai chữ Khách Trần, chỉ rõ biết được cái bờ mé của phiền não. Đức Thế Tôn ắt chỉ ngay (Trực Chỉ) cái Bồ Đề mà nói. Trước hết là ở nơi ngoại cảnh mà biện rõ cái Chân Tánh. Cảnh có nắm mở mà cái Thấy thì không động hay tĩnh, đây là chỗ người ta dễ biết. Đức Thế Tôn nhân cái chỗ dễ biết đó mà dẫn dắt. Quả nhiên, Ông Anan tin là cái tay có nắm có mở, còn cái Thấy không có nắm mở, mà nói “Tánh Thấy của tôi còn không có cả cái tĩnh, lấy gì gọi là không ở yên ?” Tìm tướng động tĩnh tuyệt chẳng thể được. Cũng gần thấy được vị chủ nhân thường trụ rồi. Nếu không phải là sự thức tỉnh vi diệu của Thế Tôn làm sao được như vậy.
Xưa, có Ngài Tây Đường(129) hỏi Tổ Bá Trượng : “Về sau, ông làm sao khai thị cho người ?”
Tổ Trượng dùng tay mở nắm lại hai lượt.
Ngài Tây Đường hỏi : “Lại làm cái gì ?”
Tổ Trượng lấy ngón tay điểm ba cái.
Thử nói cái hiển dụng như thế của Tổ Bá Trượng là hợp với cơ phong của Lăng Nghiêm hay không, hay là có đạo lý gì khác ?
Lại như Hòa Thượng Câu Chi, thuở mới trụ am, có vị ni tên là Thực Tế đến am, đi thẳng vào chẳng hề cất nón, cầm tích trượng đi quanh thiền sàng ba vòng, rồi bảo : “Nói được thì bỏ nón”.
Hỏi vậy ba lần, thầy Câu Chi không có chỗ đáp được. Vị ni bèn đi.
Thầy Câu Chi nói : “Trời sắp tối rồi, hãy nghĩ lại một đêm”.
Ni sư nói rằng : “Nói được thì ở lại”.
Thầy Câu Chi lại không có chỗ đáp lại. Ni sư bèn đi.
Sư Câu Chi than rằng : “Ta tuy có cái hình tướng trượng phu mà không có khí phách của trượng phu !” Bèn nổi lòng hăng tức muốn rõ biết việc này, định bỏ am đi các nơi tham hỏi.
Đêm ấy, vị thần Núi bảo rằng : “Chẳng nên lìa đây, ngày mai sẽ có vị Bồ Tát xác phàm đến đây vì Hòa Thượng nói pháp”.
Hôm sau, Tổ Thiên Long đến am, Ngài Câu Chi nghinh lễ rồi kể lại đầy đủ câu chuyện. Tổ Thiên Long chỉ dựng đứng một ngón tay mà khai thị cho. Ngài Câu Chi hoát nhiên đại ngộ.
Từ đó về sau, hễ có ai hỏi, Ngài chỉ dựng đứng một ngón tay. Khi sắp thị tịch, Ngài nói với chúng rằng : “Ta được nơi Ngài Thiên Long một ngón tay Thiền, suốt đời dùng chẳng hết. Có hội chăng ?” Rồi dựng lên một ngón tay mà tịch.
Ngài Thiên Đồng tụng rằng :
Lão Câu Chi một ngón tay Thiền Hai mươi năm dùng mãi không cùng Tin có đạo nhân, nhiều phương thuật Rõ không tục vật, trước mắt nhìn Chỗ được quá giản dị B> an bày khắp rộng thay !
Đại thiên sát hải uống đầu lông Vô hạn rồng, lân vào tay kẻ ?
Nhậm Công(130) trân trọng nắm cần câu”.
Ngài Tuyết Đậu tụng rằng :
Rất khen, thương lắm lão Câu Chi Vũ trụ xưa nay chẳng có gì Từng hướng đại dương buông gỗ nổi Sóng đêm khúc gỗ tiếp rùa đui
Kinh Pháp Hoa: “Như con rùa một mắt gặp lỗ bộng của khúc gỗ trôi nổi, không bị nạn chết chìm”.
Đức Thế Tôn từ lúc mở nắm ngón tay cho đến đây, không chỗ nào là không chỉ bày Tri Kiến(131) của Phật, khiến người được chỗ yên ổn. Sao lại chẳng bắt chước cái kế của con rùa đui ?
💥 THÔNG rằng
Đoạn này là ở trong thân mà biện rõ cái Chân Tánh: đầu tự dao động, còn cái Thấy (Tâm Tánh) không chỗ động. So với đoạn trước, tay tự nắm mở, còn cái Thấy không có chỗ động thì lại càng vi mật.
Ở nơi thân của một người, có thấy động tức là đầu động, làm sao nói được là đầu tự động lay mà cái Thấy thì không động? Cái tùy theo đầu mà có phải có trái ấy là Tình Kiến. Cái chẳng theo đầu mà có động có tĩnh là Chân Kiến (cái Thật Tánh). Tình Kiến thuộc Thức, nên có khởi có diệt. Chân Kiến thuộc Tánh, vốn không làm, không dừng lại. Làm sao nghiệm chuyện này? Đầu có động, có tĩnh thì có thể thấy được, cái Thấy không có động tĩnh để có thể chỉ ra. Bởi thế, nên biết cái không có động tĩnh để chỉ ra được, đó là Chân Kiến. Trước đây, Ông Anan chấp Thức làm Tâm, chỉ biết Tình Kiến mà cho là cái Thấy. Nay nhờ phương tiện chỉ dạy của Như Lai, cái Trí Sáng tạm hiện ra, mới tin hiểu đầu tự dao động còn cái Thấy thì không chỗ động. Cái Tánh Thấy vốn chẳng động này, thì động cũng như thế, tĩnh cũng như thế; khi thấy chẳng phải có, khi không thấy chẳng phải là không, trong ấy còn không có cái ngừng yên, có gì mà dao động. Đó là cái Thể Không Tịch Ly Trần vậy. Ông Anan đối theo đây mà biết Tánh đó vậy. Đã nói là biết Tánh, sao còn lắm thứ đa nghi ? Ấy vì Ông Anan nhờ Phật đưa bàn tay ra, rồi phóng ánh sáng, lại nắm mở bàn tay, so sánh với đầu dao động. Cái Thấy bàn tay nắm mở không động, cái Thấy của đầu day qua phải qua trái cũng không động. Đây là cái biết do suy nghĩ đo lường chứ không phải là sự nhiệm mầu của tự mình tỏ ngộ. “Theo cửa mà vào, chẳng phải của báu trong nhà”, ở đây lại càng rõ ràng tin hiểu.
Thiền sư Vô Nghiệp ban đầu ra mắt Đức Mã Tổ, bạch hỏi rằng: “Văn học của Tam Thừa đã nghiên cứu sơ lược ý chỉ. Từng nghe Thiền Tông nói “Tức Tâm là Phật”, thật chưa hiểu được”.
Đức Mã Tổ nói : “Chỉ cái tâm chưa hiểu đó là phải (tức thị), ngoài ra không có vật nào khác”.
Sư Nghiệp hỏi : “Thế nào là mật truyền tâm ấn của Tổ Sư từ Tây sang ?”
Đức Mã Tổ nói : “Đại Đức đang ồn ào không ở yên ở trong ấy, hãy đi, khi khác đến”.
Sư Nghiệp vừa đi ra, Đức Tổ gọi : “Đại Đức !”
Sư Nghiệp quay đầu lại.
Ngài Mã Tổ nói : “Đó là cái gì ?”
Sư Nghiệp liền lãnh ngộ, bèn lễ bái. Ngài nói rằng : “Cái gã ngu này, lễ bái làm chi vậy ?”
Lại có thiền sư Ngũ Duệ Linh Mặc từ xa đến ra mắt Ngài Thạch Đầu, rồi hỏi
“Một lời hợp nhau thì ở, chẳng hợp thì đi”.
Tổ Đầu cứ ngồi. Sư Duệ bèn đi. Tổ Đầu theo sau, gọi : “Xà Lê !” Sư Duệ quay đầu lại.
Tổ Đầu nói : “Từ sanh đến tử, chỉ là cái Ấy, quay đầu chuyển não làm gì !”
Sư Duệ ngay dưới câu nói đại ngộ, bèn bẻ ném cây trụ trượng mà ở lại.
Hãy nói hai Ngài Vô Nghiệp và Ngũ Duệ quay đầu, chuyển não thì liền ngộ, so với Ông Anan là nhiều, ít ?
💥 THÔNG rằng
Bàn tay của Phật chẳng dừng trụ, mà Tánh Thấy thường trụ, đó là Chủ Nhân Ông chân thật. Đầu tự dao động, Tánh Thấy không động, thật là cái Thể Chơn Không. Nay chẳng nhận Chủ mà nhận Khách, chẳng nhận cái Không mà nhận cái Trần, há chẳng phải là làm chuyện điên đảo hay sao? Cũng vì niệm niệm sanh diệt, phiền não nối nhau, đến nỗi bỏ mất Chân Tánh, chẳng nên đạo Bồ Đề, là do Khách Trần mê hoặc mới đến nỗi như thế.
Kinh Viên Giác nói “Lầm nhận bốn Đại làm thân tướng của mình, bóng dáng sáu Trần duyên ảnh làm tâm tướng của mình”. Chính là chỗ ở đây nói “Lấy cái động làm thân, lấy cái động làm cảnh, nhận vật làm mình”. Đã nhận cái vọng động chạy theo cảnh đó làm Tự Tâm, thì cái Chân Tâm Bất
Động bèn mê trong cái trôi lăn, nên gọi là “Bỏ mất” chứ chẳng phải nói Bỏ mất là không hiện còn vậy. Giống như nước đã thành băng, tánh nước biến mất.
Đoạn trước, nói “Hay sanh cái duyên, nhưng duyên theo cái Sở nên bỏ mất. Bỏ mất cái Vốn Tự Sáng này, tuy suốt ngày dùng mà chẳng tự giác, uổng oan sa vào các nẻo”. Như thế thì làm sao mà ra khỏi sanh tử ? Cho nên nói “Luân hồi xoay chuyển trong đó, tự chọn giữ lấy cái trôi nổi xoay vần”. Trước, nói “Tất cả chúng sanh từ vô thủy đến nay, sanh tử nối nhau, đều do không biết cái Chân Tâm Thường Trụ, Tánh Thể Sáng Sạch. Dùng các vọng tưởng, những tưởng này chẳng chân thật nên có luân chuyển”. Chính là nói chỗ này.
Xưa, Tổ Động Sơn hỏi một vị tăng: “Ông tên gì?”
Đáp: “Tôi đây”
Tổ Sơn hỏi: “Vậy cái gì là Chủ Nhơn Ông của thầy Xà Lê?”
Đáp : “Cái Thấy đối diện”
Tổ Sơn rằng: “Khổ thay, khổ thay ! Người đời nay hết thảy đều như thế này. Chỉ nhận ra lừa trước, ngựa sau(132) đấy thôi mà lấy làm cái Chính Mình. Phật Pháp chìm đắm là do đó vậy. Chủ trong Khách(133) còn chưa phân biệt được, làm sao phân biệt nổi Ông Chủ trong Chủ (Chủ trung Chủ)”
Vị tăng liền hỏi: “Như sao là Chủ trong Chủ?”
Tổ Sơn nói: “Thầy Xà Lê tự nói lấy”
Vị tăng đáp: “Tôi mà nói được thì đó là Chủ trong Khách, còn như thế nào là Chủ trong Chủ?”
Tổ Sơn nói rằng: “Nói ra thì dễ biết bao, mà tương tục nối nhau thì quá khó!”
Bèn khai thị bằng bài tụng:
Ôi thấy đời nay học đạo đông
Ngàn ngàn vạn vạn nhận cửa ngoài
Cũng tợ vào kinh chầu Vua Thánh Chúa
Chỉ đến cửa triều đã vội ngừng
Do đây mà xét, thật Thức Tình Phân Biệt mà so với cái Kiến Tinh Bất Động hãy còn cách xa mấy dặm đường, mà cái Kiến Tinh Bất Động so với Chân Tánh Tịch Thường vẫn còn phải tự mình biện biệt.
Như đoạn kinh sau nói “Thấy do lìa Thấy, cái Thấy không bì kịp”, thì cơ hồ đã vượt cửa triều mà thấy Vua rồi đó.
GHI CHÚ
MỤC III: PHẬT NÊU RA TÁNH THẤY NGOÀI CÁC NGHĨA PHẢI VÀ CHẲNG PHẢI
➥ 🔗