MẠN ĐÀM TÂM KINH
GIỚI THIỆU
Tâm Kinh chỉ có 260 chữ cô đọng lại những giáo lý tinh túy trong Kinh Đại Bát Nhã, trong đó có đủ tư tưởng Đại Thừa và Tiểu Thừa Phật giáo. Trong số ngàn vạn quyển kinh, Tâm Kinh là bộ kinh chữ ít nhất, ý nghĩa sâu xa nhất. Trong văn tự gọn gàng rõ rệt đó, đã nói lên lý Bát Nhã giai không, phủ định tất cả phân biệt tâm, đồng thời cũng chỉ bày ra tự tánh của con người, Bổn Diệu Chân Thanh Tịnh, có đủ tất cả Trí Huệ Công Đức. Phàm tất cả pháp trên cuộc đời này đều do chân tâm mà có, cho nên gọi là Tâm Kinh.
BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA TÂM KINH
Ngài Bồ Tát Quán Tự Tại khi thực hành thâm sâu về trí tuệ Bát Nhã Ba la mật, thì soi thấy năm uẩn đều là không, do đó vượt qua mọi khổ đau ách nạn.
Nầy Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc chính là không, không chính là sắc, thọ tưởng hành thức cũng đều như thế.
Nầy Xá Lợi Tử, tướng không của các pháp ấy chẳng sinh chẳng diệt, chẳng nhơ chẳng sạch, chẳng thêm chẳng bớt.
Cho nên trong cái không đó, nó không có sắc, không thọ tưởng hành thức.
Không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân ý. Không có sắc, thanh, hương vị, xúc pháp.
Không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới.
Không có vô minh, mà cũng không có hết vô minh.
Không có già chết, mà cũng không có hết già chết.
Không có khổ, tập, diệt, đạo.
Không có trí cũng không có đắc, vì không có sở đắc.
Khi vị Bồ Tát nương tựa vào trí tuệ Bát Nhã nầy thì tâm không còn chướng ngại, vì tâm không chướng ngại nên không còn sợ hãi, xa lìa được cái điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn.
Các vị Phật ba đời vì nương theo trí tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng, chánh đẳng chánh giác.
Cho nên phải biết rằng Bát nhã Ba la mật đa là đại thần chú, là đại minh chú, là chú vô thượng, là chú cao cấp nhất, luôn trừ các khổ não, chân thật không hư dối.
Cho nên khi nói đến Bát nhã Ba la mật đa, tức là phải nói câu chú:
Yết đế yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề tát bà ha.
Qua rồi qua rồi, qua bên kia rồi, tất cả qua bên kia rồi, giác ngộ rồi đó!
HAI BỜ GIÁC TÁNH
Trong 56 ức 7000 vạn dân trên thế giới hiện nay, chỉ có cực kỳ ít người là giác ngộ đạt đến sanh mạng chân lý tối cao, chúng ta tôn xưng là Phật. Nơi mà các Ngài sống, chúng ta tạm thời gọi đó là Bỉ ngạn (Bờ bên kia).
Đại đa số còn lại nhận lầm sanh mạng thực tướng. Chúng sanh sống trong thế giới điên đảo mộng tưởng. Thế giới mà họ đang sinh sống, chúng ta tạm thời gọi đó là Thử ngạn (Bờ bên này).
CÁI TA CHỦ QUAN
Những người bình phàm sống trong Thử ngạn, họ có Cái Ta chủ quan. Họ sống bất cứ nơi nào cũng giống như một cây kim rơi vào trong thùng nước, vĩnh viễn chấp Tự Ngã, không chịu dung nhập vào trong nước. Có ta tức là có phía đối đãi bên ngoài, tốt xấu quý tiện. Có Ta ắt là có Người, xuyên qua công cụ nhận thức của mình, nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, tiếp thụ thế giới bên ngoài những tư liệu học được, Sắc - Thanh - Hương - Vị - Xúc - Pháp. Do đó, những tư liệu này thâm nhập vào trong thế giới nội tâm của họ. Sau khi đưa tin vào trong bộ não, trước hết, cất vào trong trung tâm tư liệu và tiến hành so sánh. Dùng tư liệu vốn có và tư liệu mới đem ra so sánh, thêm vào cái cải biến của mình, cảm tình tiêu chuẩn phân tích, suy lý, quyết đoán. Cuối cùng phát ra chỉ lệnh hành động. Những thứ phản ứng phát ra từ nội tâm này, cùng tác dụng, hành vi cũng vì đó mà tạo thành kết quả. Nhân vì bên ngoài mà thế giới nội tâm biến hóa gọi là Thọ - Tưởng - Hành - Thức. Ngoài thế giới nội tâm ra, tất cả thế giới bên ngoài, bao hàm cả nhục thân của mình thì gọi là Sắc. Sắc ở thế giới bên ngoài và Thọ - Tưởng - Hành - Thức của thế giới nội tâm hợp lại gọi là Ngũ Uẩn.
Chúng sanh ở nơi có ngã, có đối tượng, trong thế giới tương đối, do đó, mới có lớn - nhỏ, có đẹp - xấu, có tâm phân biệt thuận nghịch. Họ ở nơi đã làm cho chính mình độc lập. Thái độ sinh hoạt đối lập với bên ngoài. Chúng ta gọi đó là sống ở sắc cảnh. Ngược lại, những bậc giác ngộ sống nơi Bỉ ngạn, thái độ họ sống ở thế giới không giống như thế. Họ sống ở bất cứ không gian nào đều vô ngã đem chính mình dung nhập vào không gian đó. Họ sống ở bất cứ thời gian nào đều vô ngã đem chính mình dung nhập vào thời gian ấy.
“Nóng sướng quá, may quá được tắm nắng.”
Khi Ngài nhìn hoa: Ta tức là hoa Ta tức là cánh hoa.
Khi Ngài nghe mưa: Ta tức là mưa Ta tức là tiếng mưa.
Khi Ngài sanh lão bệnh tử: Ta tức là sanh, ta tức là lão, ta tức là bệnh, ta tức là tử.
Ngài đã vô ngã tiêu mất chính mình. Đối với tất cả biến hóa ở thế giới bên ngoài, Ngài đều chân thành thừa nhận, đối mặt, tiếp nhận vui vẻ, cẩn thận thưởng thức từng khoảng thời gian và không gian. Thái độ mà Ngài sống ở thế giới này giống như một hạt muối bỏ vào trong thùng nước. Muối bỏ vào nước đem chính mình hóa thành ức vạn phân tử. Chính mình tuy đã tiêu mất nhưng mỗi bộ phận của nước đều có vị mặn. Trong khoảng không của thùng nước, không còn tìm thấy chính mình nữa. Mà cùng tất cả hợp lại thành một. Ngài giống như vô lượng quang, bao phủ tất cả không gian, giống như vô lượng thọ, bao phủ tất cả thời gian. Cảnh giới thái độ sinh hoạt này của Ngài chúng ta gọi đó là Không.
SẮC VÀ KHÔNG
Nếu thế giới là một dãy thảo nguyên, mỗi người là một cây cỏ nhỏ. Bạn tự cho rằng mình là một cây cỏ nhỏ chính bạn đang sống ở sắc cảnh của Thử ngạn.
“Tôi là một cây cỏ nhỏ.”
Nếu bạn cho rằng mình là bản thân của thảo nguyên. Thế là bạn đang sống ở không cảnh của Bỉ ngạn.
“Tôi chính là Thảo Nguyên.”
Nếu thế giới là cái biển lớn mỗi người là một giọt nước biển. Bạn tự cho rằng mình là giọt nước biển là bạn sống ở sắc cảnh.
“Tôi là một giọt nước biển trong biển lớn.”
Nếu bạn cho rằng mình là bản thân của biển lớn thế là bạn đang sống ở không cảnh.
“Tôi tức là biển lớn”
Thử ngạn và Bỉ ngạn này, kỳ thực là đồng thời gian, không gian.
“Thật vô vị” - “Thật thanh tịnh”
Chỉ là ở trong một hoàn cảnh nhưng thái độ của con người bất đồng nên cảnh giới sống cũng không giống nhau.
“Ồn quá” “Nghe hay quá”
Cho nên Đức Phật nói Sắc bất dị Không, Không bất dị Sắc, Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc. Một người sống ở bất cứ thời gian, không gian nào nên giống như hạt muối bỏ vào thùng nước vậy. Một hạt muối khi mới bỏ vào thùng nước, có ta - có nước.
“Tôi là một hạt muối”
Sau khi nó dung nhập với nước, vô ngã vô nước, tiêu mất chính mình, vô ngã đem chính mình dung nhập vào mỗi bộ phận của thời gian không gian.
“Mỗi bộ phận của nước đều có tôi. Tôi chính là nước.”
Đem chính mình dung nhập vào thùng nước, thì bạn đã có cả một thùng nước. Đem chính mình dung nhập vào Thời gian, Không gian, bạn đã có tất cả Thời gian, Không gian.
Đại đa số con người đều luôn đeo bám quá khứ, kỳ vọng ở tương lai mà không sống trong hiện tại.
Nên làm một người dung nhập ở hiện tại, đừng làm người đeo bám quá khứ và nô lệ kỳ vọng ở vị lai Nên giống một chiếc thuyền trôi theo thời gian và không gian
Nước chảy đến đâu thuyền trôi đến đó.
Thuyền trôi đến đâu, người theo đến đó.
Người đi đến đâu, tâm đi đến đó.
RA KHỎI VÔ CHI ĐẠO
Trên dưới bốn bề gọi là Vũ, bao hàm tất cả Không gian cho nên vô cùng vô tận. Cổ vãng kim lai gọi là Trụ. Từ lúc ban đầu cho đến khi cuối cùng, bao hàm tất cả Thời gian, cho nên vô thỉ vô chung.
Khi Quán Tự Tại Bồ Tát dùng quan điểm vô ngã, trầm tư triệt để sâu xa nhất, Ngài đã lãnh ngộ được rõ ràng:
Tất cả trong vũ trụ đều là nhất thể, không có bất cứ vật nào có thể độc lập ngoài vũ trụ. Tất cả vật chất danh lợi của thế giới ngoại tại, cùng với thân tâm cảm thọ của thế giới nội tại, cũng đều là tùy thời tùy chốn mà lưu chuyển bất định.
Con người nên đem chính mình hóa thành vô ngã, tùy thời tùy chốn cùng Thời gian, Không gian, hòa thành nhất thể toàn bộ quan niệm thể tánh và thực tiễn gọi là Không. Khi thấu triệt thể nhập thực hành cái Không này, đem mình hoàn toàn hòa nhập vào trong Không. Do đó, không còn cái gọi là khổ nạn, vận không may, những cái nhìn lệch lạc do tự thân phát ra mà sinh đau khổ.
Đức Phật nói với đệ tử Xá Lợi Tử rằng:
Xá Lợi Tử à! Nếu chúng ta dùng quan điểm của mình để nhìn tất cả đối tượng ngoài tự thân, kỳ thật, những đối tượng này cùng đồng thời là bản thể. Bản thể đồng thời cũng là đối tượng, bởi vì không có bất cứ vật nào có thể độc lập ở bên ngoài bản thể, bao gồm chính ông và phần tâm linh của ông, bao gồm những cảm thọ phát xuất từ tâm linh của ông. Tất cả những thứ đó đều nằm trong bản thể. Bản thể này, chúng ta tạm thời gọi nó là Không. Tất cả đối tượng mà ông nhìn thấy, chúng ta gọi nó là sắc. Nói như vậy là ông biết, Không và Sắc vốn chẳng phải là hai. “Sắc tức thị Không, Không tức thị Sắc”, chẳng hề sai biệt. Cảm thọ, tri giác, phán đoán, ý thức của con người, quan ni… Tất cả tác dụng của tinh thần cũng như vậy, đều bao hàm ở trong cái Không này. Xá Lợi Tử à! Tất cả sự vật, tất cả cảm tưởng, đều do ông đứng ở lập trường của mình, mới sinh ra đó. Cái gọi là Sanh - Tử, Đẹp - Xấu, Nhiều - Ít đều lấy lập trường của ông để nhìn, mới có thứ Cảm thọ này. Do đó, ông không nên có lập trường, mà nên không theo bất cứ quan điểm nào, đi nhìn sự vật. Khi ta thấy hoa, ta tức là hoa. Khi ta thấy bướm, ta tức là bướm. Ở bất cứ lúc nào, cũng vô ngã đem chính mình hòa nhập cùng mọi Thời gian. Ở bất cứ Không gian nà, cũng vô ngã đem chính mình hòa nhập cùng mọi Không gian. Thân ta ở trong nước, ta tức là nước. Khi thân ta ở trong bể cá, ta tức là cá. Đem chính mình hóa thành ức vạn phân tử, dung nhập vào trong mọi Thời gian, Không gian ông ở. Khi đó không còn có ta, cũng không có những đối tượng như Vũ trụ, Pháp tướng, Thời gian, Không gian này nữa. Giống như một hạt muối bỏ vào trong thùng nước vậy. Muối tiêu mất rồi nhưng mỗi bộ phận trong nước đều có vị mặn, vào chỗ không có muối cũng không có nước, cảnh giới hoàn toàn dung nhập. Cũng không có cái gọi là Cảm thọ của tự thân, tri giác phán đoán ý thức nữa. Không theo lập trường của mình dùng “mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm linh” đi xem xét thì sẽ không sanh ra những thứ giác quan “thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc chạm” - tất cả những tư liệu cảm thọ sai lệch. Không đứng ở nơi sanh để nhìn tử. Không đứng ở nơi không để tưởng đến có. Không có quan điểm sai lệch thì sẽ không sanh các loại phân biệt tâm. Không có nhân, cũng không có sự hình thành của nhân. Không có quả, cũng không có sự thành hay không thành của quả. Ý nghĩa của sanh mạng ở chỗ hoàn toàn dung nhập ở quá trình chứ chẳng phải ở mục đích.
KẾT LUẬN
Hiểu được những thứ này thì sẽ không còn bị lão, tử trói buộc mà đau khổ ưu phiền. Đau khổ của nhân sinh, biết được nguyên nhân của khổ, tiến hành tu tập trị liệu để tiêu trừ khổ, đạt đến cảnh giới cuối cùng Vô ngã vô khổ. Bốn giai đoạn này chúng ta gọi đó là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Khi thấu hiểu được bản chất của sanh mạng là sanh sanh không ngừng; sanh tử giao nhau biến chuyển. Dung nhập vào quá trình sanh sẽ không còn có vấn đề Sanh, Lão, Bệnh, Tử; cũng không có cái gọi là vấn đề Khổ, Tập, Diệt, Đạo nữa. Có thể hiểu được lý này xem ra rất thông minh, kỳ thật, làm gì có chỗ nào thông minh chứ.
Cái lý này đã rất rõ ràng bày ra đó mà, chỉ do con người mê mờ không nhìn thấy. Có thể thực hành đạo lý này xem ra như được chỗ cao thâm, sự thật làm gì có được cái chi. Đạo lý này vốn là như vậy mà, chỉ do con người không hiểu mà dùng. Bậc giác ngộ đều hiểu rõ những điều này thấy rõ bổn nguyên của sự vật một cách thấu triệt.
Tâm của Ngài rộng rãi sáng suốt không còn bị quan điểm sai lầm, lệch lạc xúi giục nữa, buông bỏ tự ngã, buông bỏ tâm sinh phân biệt. Do đó, Ngài không còn bị lo sợ khát vọng và huyễn tưởng nữa, không còn sống trong quan niệm điên đảo, sai lầm. Ngài biết được những quan niệm sai lầm này do con người đứng ở lập trường tự tư của chính mình mà sanh ra. Vì vậy, tâm của Ngài như hồ nước từ đục từ từ lắng xuống cho đến trong vắt, lắng đọng. Đây chính là Bỉ ngạn.
Tất cả bậc giác ngộ ở quá khứ, hiện tại, vị lai cũng đều y theo trí huệ có thể đạt đến Bỉ ngạn mà đạt được quả giác ngộ tối cao. Thoát ra khỏi những cái phát ra từ thân tâm cái nhìn sai lệch và huyễn tưởng mà đạt đến Bỉ ngạn. Cho nên, chúng ta nên biết trí huệ đạt đến Bỉ ngạn là phương pháp vĩ đại, là phương pháp đại triệt đại ngộ, là phương pháp chí cao vô thượng, là phương pháp siêu tuyệt không sánh. Nó có thể tiêu trừ tất cả những cái nhìn sai lệch mà sanh ra vọng tưởng và đau khổ. Phương pháp này là chân thật, có thể thực hành. Mọi người đều có thể áp dụng, nhân đó mà đạt đến Bỉ ngạn. …