Lăng Già Kinh Tông Thông - Mục Lục
-
Hán dịch lần 1: Tam tạng Đại sư Cầu-na-bạt-đà-la, người Thiên Trúc, đời Tống
-
Hán dịch lần 2: Tam tạng Pháp sư Bồ-đề-lưu-chi, người Bắc Thiên Trúc, đời Nguyên Ngụy
-
Hán dịch lần 3: Tam tạng Pháp sư Thật-xoa-nan-đà, người Vu-điền, đời Đường
-
Đời Minh: Bồ Tát Giới Đệ Tử Tiền Phụng Huấn Đại Phu, Lễ Bộ Từ Tế Thanh Sử Tư Viên Ngoại Lang, Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi tông thông
-
Việt Dịch: Tuệ Minh - Nguyễn Hải Đà
DUYÊN KHỞI LĂNG GIÀ KINH TÔNG THÔNG 🔗
QUYỂN I: 🔗
QUYỂN II: 🔗
QUYỂN III: 🔗
QUYỂN IV: 🔗
QUYỂN V: 🔗
QUYỂN VI: 🔗
QUYỂN VII: 🔗
QUYỂN VIII: 🔗
DUYÊN KHỞI LĂNG GIÀ KINH TÔNG THÔNG
Năm Giáp Thân (1584), tôi từ Trường Châu trở về, tạm nghỉ ngơi ở Gia Hòa, gặp hai vị Tăng tên là Cấu Đạt Quán và Mật Tạng, từ xưa vốn đã hợp ý nhau, hằng ngày đàm đạo về cõi vui Thiền định, mà ý lại ít buông lung ra ngoài. Một đêm nằm mộng thấy mình đến cõi Đâu Suất, lặng nhìn Bồ-tát Di-Lặc dung mạo trang nghiêm. Ngài gọi, tôi chấn động nằm vóc rạp xuống, tâm ý rỗng rang kính nghe lời chỉ dạy, Ngài dạy rằng Phân biệt là thức, vô phân biệt là trí. Sáng sớm tôi vội đến hỏi hai vị Tăng, lời này phát xuất từ Kinh nào? Cả hai đều nói giống lời trong Kinh Lăng Già, tôi liền lấy Kinh Lăng Già lục tìm xem mà chẳng thấy.
Đến năm Đinh Dậu (1597, sau 13 năm) tôi đi cùng vị Tăng quen lúc xưa đi qua cổng thành vào Kinh đô, vị này rất thích luận về Kinh Lăng Già (dịch lần thứ ba vào đời Đường), say sưa không biết mệt. Vị Tăng nói phải chăng Ngài Giác Phạm đã được một bộ luận (về Kinh Lăng Già) của ngài Đạo An trước tác, thời vua Đại Hành. Ngài Đạo An đối với các nội điển không gì chẳng tinh thông. Tôi nói rằng chẳng phải ngài Đạo An thì chẳng tạo được luận đây, nhưng Đạo An vị ấy đã ra người thiên cổ, còn nghe nói Ông Hám Sơn - Đức Thanh nhập đạo, vượt qua sông Loa cùng vì hết lòng muốn kinh lễ bộ Kinh này. Ngài Hám Sơn khi ngụ ở Lôi Dương, chẳng phải đã ba năm biên soạn ghi chép Kinh đấy ư! (tên là Lăng Già Bổ Di năm 1596, ở Việt Nam, Ni sư Thích Nữ Như Đức dịch tên là Lăng Già Bút ký, xuất bản năm 2015) Tôi với ngài Hám Sơn thật lòng tán thán, tâm ý thâm hợp. Từ năm Quý Tỵ (1593) tôi ẩn trong am nhỏ sau núi, lục xem xét các bản dịch, nhưng vẫn rời rạc. Sau tìm được một bản ghi chép đầy đủ, lúc đó như trực tiếp được bản luận vậy.
Đọc lần thứ nhất tôi sững sờ rụng động, đọc lần thứ hai tôi sinh nghi, đọc lần thứ ba tôi có chỗ tin nhập, bất giác lệ trào. Tôi lại lấy ba bản dịch khảo cứu, bản dịch đời Tống cao sâu, có ý vị, thật không phải dễ; còn hai bản đời Ngụy đời Đường thì câu từ chia chẻ đào ngữ, nếu chẳng phải bậc chứng đắc khó thể thấu suốt, nhưng bố cục trình bày phân đoạn rõ ràng như chỉ trên lòng bàn tay, khiến người đọc dễ tham khảo. Tôi nghiên cứu nhiều lần, cân nhắc những ghi chú xưa, dung hội cả ba bản dịch, tâm lực tràn đầy, xen chút phân vân chỉ là chưa tỏ thấu hiểu đạo của người xưa, chớ cần phải hiển bày cùng tột nghĩa thâm áo của Kinh. Chớ khiến than rằng có Kinh Lăng Già mà khó đọc thay! Ngày xưa đức Sơ Tổ nói với Nhị Tổ rằng đất này có 4 cuốn Kinh Lăng Già dùng để ấn tâm, truyền chẳng lâu về sau sẽ thành môn học danh tướng. Than ôi, nghìn năm sau người cầu Lăng Già thấu tỏ nghĩa danh tướng còn hiếm có, há hướng là Ấn tâm ư!
Thiết nghĩ chứng nhập cảnh giới tự giác của tông môn, một lời buông ra chưa hẳn là không khế hợp Kinh Lăng Già, bèn thiển ý dùng cơ duyên của bậc tôn túc xưa phu vào phần cuối của mỗi đoạn Kinh để làm sáng tỏ. Về việc thống này, nếu lấy Kinh soi sáng cùng đâu bằng lấy tông để hiển Kinh, nếu lấy Kinh hiển Kinh mới chỉ dùng ý để phân biệt, lấy Tông hiển Kinh tức ở nơi vô phân biệt mà phân biệt. Phân biệt tức Thuyết tông, vô phân biệt tức Tông thông.
Tông thông thì tâm là một với Kinh, Kinh là một với Tâm, lại không trái ngược nghĩa ấn tâm của đức Sơ Tổ, mà chỗ quy về của bốn quyển Phật ngữ tâm đầy rốt chẳng ngoài ý chỉ này vậy! Bồ-tát Di-Lặc dụng mộng báo cho biết đã gần 20 năm mà nay điềm mộng ấy mới thành. Âu cũng là cơ duyên từ trước, nên có được điềm báo này chăng?
Vả lại 2 bản dịch của Ngụy, Đường đa số dịch phần đầu như phẩm Khuyến thỉnh và thứ đến là phẩm Kệ vấn Đà-la-ni, còn lời khai thị trong mộng vô phân biệt là Trí thật ở trong phẩm Xướng, nhân lúc đọc Kinh đấy ý tôi vẫn chưa dám quên lời Từ Tôn soi tỏ, nhưng chỗ trí chứng vô phân biệt tôi mơ hồ chưa nhập vậy, hơn nữa trong Phẩm Kệ, được Phật thọ ký cho ngài Long Thọ đã đắc Sơ địa rằng, đối với Kinh đây rộng xiển dương khai tòa là lấy Tịnh độ làm nơi sinh về. Xem đến như người được truyền y bát, các Tổ cũng phải tri Kinh này, người cầu sinh Tịnh độ càng không thể không dốc lòng tin Kinh này vậy.
Kinh xin thuật lại ngọn nguồn dặn dò ghi chép cốt để người có mắt xem sao. Ồ, thế thì trong mộng lại nói mộng sao, đây là chỗ hướng về ư, mời cùng xem.
NGUỒN
…