(香嚴寺)
Chùa ở trong núi Bạch Nhai, phía tây bắc huyện Đặng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc.
Vốn do hai ngài Nhất hạnh và Hổ nhân sáng lập vào đời Đường.
Sau ngài Nhất hạnh thị tịch ở Trường an, vua Túc tông đích thân đến dự lễ tang.
Lúc bấy giờ trong núi Bạch nhai bỗng có mùi hương bay tỏa, cả tháng không dứt, vì thế chùa được đặt tên là Hương nghiêm.
Về sau, ngài Nam Dương Huệ Trung là đệ tử nối pháp của Lục tổ Huệ Năng đến trụ trì chùa này, lúc đó chùa có tên là Hương Nghiêm Trường Thọ tự.
Khi ngài Tuệ trung thị tịch, cũng được an táng tại nơi này.
Ngoài ra đệ tử nối pháp của thiền sư Quy Sơn Linh Hựu là Hương Nghiêm Trí Nhàn cũng từng trụ trì chùa này.
🔗 [X. Đại minh nhất thống chí Q.30]. (xt. Trường Thọ Tự).
Chùa Tương Nhan, còn được biết đến với các tên gọi “Chùa Trường Thọ”, “Chùa Trường Thọ Tương Nhan” và “Chùa Thiền Tương Thông”, nằm trong dãy núi Bạch Nha ở phía tây bắc thị trấn Cangfang, huyện Xichuan, thành phố Nanyang, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Chùa giáp với núi Long Sơn ở phía đông, núi Hushan ở phía tây, núi Houling ở phía bắc và núi Mianshan ở phía nam. Toàn bộ địa hình có hình dạng như một bông sen, với chùa Tương Nhan nằm ở giữa. Chùa Tương Nhan được xây dựng lần đầu tiên dưới thời hoàng đế Đại Tông nhà Đường. Ban đầu, đây là ngôi chùa Đạo giáo của Huizhong ở Nanyang. Sau đó, chùa Trường Thọ được xây dựng tại đây. Trước khi hoàng đế Huyền Tông nhà Đường lên ngôi, ông đã nương náu trong chùa để tránh bị hoàng đế Võ Tông nhà Đường bức hại và được thụ giới làm sư.
Từ khi Hoàng đế Đường ban chiếu chỉ bảo vệ nó, chùa Tương Nham được biết đến là một trong bốn ngôi chùa nổi tiếng nhất Trung Quốc, cùng với chùa Thiếu Lâm ở Đặng Phong, chùa Bạch Mã ở Lạc Dương và chùa Tương Quốc ở Khai Phong. Sau thời nhà Đường, chùa Tương Nham được phục dựng hai lần. Lần đầu tiên là vào thời Vĩnh Lạc của nhà Minh, khi hoàng đế cho phép xây dựng lại chùa Tương Nham ở Tây Xuyên.
Đó là một ngôi chùa quy mô lớn với diện tích hàng chục nghìn mẫu đất. Tên gọi “Chùa Tương Nham Vạn Mẫu” từ thời nhà Đường đã bị mất và được khôi phục lại. Nó được gọi là “Chùa Thiền Tương Nham Trường Thọ Mười Phương”. Vào thời điểm này, chùa Tương Nham có hơn 500 vị sư, “vương miện giữa những ngọn núi ở Trung Nguyên”. Vào thời Khang Hy và Càn Long của nhà Thanh, chùa Tương Nham lại được phục dựng một lần nữa. Vào mùa xuân năm thứ 59 thời Khang Hy (1720), Zhuan Yumi, vị trụ trì thứ 58 của chùa Xiangyan, đã tự mình đảm nhận việc “khôi phục Xiangyan” và bắt đầu công cuộc tái thiết kéo dài chín năm, với việc cải tạo quy mô lớn cả chùa trên và chùa dưới.
Chùa Tương Nham đã khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng Phật giáo nhờ ảnh hưởng mạnh mẽ của Huizhong, và nhiều vị cao tăng nổi tiếng đã xuất hiện qua các thời đại. Trong số các trụ trì của chùa Tương Nham, có chín vị cao tăng nổi tiếng thuộc dòng Lâm Cơ trong sáu thế hệ, từ năm 1657 đến năm 1851. Trong gần hai trăm năm, chùa Tương Nham đã trở thành một trung tâm quan trọng của dòng Lâm Cơ. Năm 1986, chùa Tương Nham được liệt kê là đơn vị bảo vệ di tích văn hóa của tỉnh Hà Nam. Năm 2006, nó được Hội đồng Nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố là đơn vị bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia. Tháng 2 năm 2012, Khu thắng cảnh chùa Tương Nham được nâng cấp lên điểm du lịch cấp 4A quốc gia.
Theo “Chú giải Biên niên sử Nam Dương thời Gia Tĩnh” và “Bia trùng tu chùa Tương Nham”, chùa Tương Nham là nơi tu tập của sư phụ Hồ Chí Trung ở Nam Dương thời Đại Đường. Sau khi Hồ Chí Trung qua đời, theo nguyện vọng cuối cùng của ông, thi hài ông được đưa từ Trường An trở về Thanh Phong, núi Bạch Nha, thung lũng Đương Tử để xây một bảo tháp chôn cất. Hoàng đế Đường Đại Tông đã ban tặng nhiều lễ vật và cử sứ giả hộ tống Hồ Chí Trung. Khi Hồ Chí Trung được đặt trong bảo tháp, các quan chức cấp cao đã tham dự tang lễ, đám đông đông nghịt. Khói hương còn vương vấn suốt một tháng. Sau đó, người ta lấy ý nghĩa “ánh sáng thơm ngát và trang nghiêm” thường thấy trong kinh Phật và đổi tên gốc “Chùa Trường Thọ” thành “Chùa Tương Nham”.
Trong lịch sử, chùa Tương Nha được chia thành hai phần: Thượng Chùa và Hạ Chùa.
Thượng Chùa nằm trên dãy núi Bạch Nha, trong khi Hạ Chùa nằm dưới chân núi, cạnh hồ chứa Danjiangkou, cách nhau khoảng 15 km.
Hạ Chùa đã bị ngập trong hồ chứa Danjiangkou vào cuối những năm 1960 do việc xây dựng dự án chuyển nước Nam-Bắc.
Hai tháp kính thời nhà Đường, cao hơn mười tầng, đã bị phá hủy hoàn toàn khi hồ chứa bị ngập.
Hiện nay, chỉ còn lại Thượng Chùa. Thượng Chùa hướng về phía nam và quay lưng về phía bắc, được xây dựng dựa vào sườn núi, và giáp với vùng nước rộng lớn Danjiangkou ở phía đông.
Mặc dù ngôi chùa đã bị hư hại nặng nề do chiến tranh trong suốt các thời đại, nhưng nó vẫn còn lưu giữ hơn 100 công trình kiến trúc chùa, tháp đá và rừng bia đá, cổng vòm đá, cổng núi, Đại Phật Điện, Điện Vi Đà, Đình Tiếp Khách, Điện Pháp, Kho Kinh điển và các công trình cổ khác, cũng như một số bức tranh tường Đạo giáo và Phật giáo cổ vì nó nằm sâu trong núi.
Có 141 công trình kiến trúc hiện có, hơn 480 tác phẩm chạm khắc gỗ, 480 tác phẩm chạm khắc gạch, 520 tác phẩm chạm khắc đá và 780 mét vuông tranh tường nội thất, bao phủ một diện tích 4.200 mét vuông.
Các tòa nhà chính
-
Ngôi đền phía trên hướng về phía nam, và các công trình dọc theo trục trung tâm từ nam lên bắc là cổng vòm đá, cổng núi, Điện Vi Đà, tiền sảnh, Điện Đại Vi, Đình Ninh Nguyệt (Đình Vương Nguyệt), Điện Pháp và Kho Kinh. Đặc điểm kiến trúc là các công trình được bố trí theo từng bậc thang từ dưới lên trên theo năng lượng địa nhiệt, tạo thành cấu trúc tám tầng, năm sân cùng với các công trình phụ trợ ở hai bên. Vào thời Khang Hy, có 437 phòng và hơn 700 trượng tường sân.
-
Cổng núi là một cổng vòm đá bốn cột với một tấm bia khắc sáu chữ lớn “Sắc lệnh Hoàng gia, Thiền tông Xiantong”. Cổng được xây dựng lại sau khi bị phá hủy bởi hỏa hoạn do sự quản lý yếu kém của một công ty Bắc Kinh. Hai con sư tử đá chạm khắc tròn đứng ở hai bên cổng.
-
Điện Weituo được xây theo kiểu mái dốc. Mái hiên phía trước, xà ngang và các đầu cột được chạm khắc hơn bốn mươi họa tiết, chẳng hạn như “Trẻ em hái sen”, “Hai con nai mùa xuân” và “Phượng hoàng chơi đùa với hoa mẫu đơn”. Hành lang có 12 cột lớn.
-
Đình Ninh Nguyệt, nằm phía sau Điện Vi Đà, là một công trình nhỏ dùng làm nơi nghỉ ngơi cho các quan lại và quý tộc cấp cao trước khi vào chính điện.
-
Điện Mahavira, ban đầu được xây dựng vào thời Vĩnh Lạc của triều đại nhà Minh và được xây dựng lại vào thời Càn Long của triều đại nhà Thanh, có chiều dài 29 mét từ đông sang tây và 22,5 mét từ bắc xuống nam. Đây là một công trình kiến trúc truyền thống mái dốc với 26 cột lớn chống đỡ các hành lang xung quanh và 8 cột “vươn trời” bên trong.
Điện có một bức bích họa mô tả các vị thần và Phật, mang tên “Cung điện của các vị tiên”, tất cả đều từ thời nhà Minh, với tổng diện tích 403 mét vuông.
Các bức tường phía đông và phía tây cũng có những bức bích họa cùng màu, mỗi bức dài 16,16 mét và cao 9,2 mét.
-
Kho Kinh sách, nằm ở phía sau cùng của ngôi chùa, lưu giữ một bức tượng Phật lớn với nghìn tay nghìn mắt. Ở góc tây bắc của Kho Kinh sách là một gian nhỏ được bao quanh bởi những tấm rèm màu vàng, một địa điểm linh thiêng huyền thoại, được biết đến như là “vùng đất kho báu để tránh tai họa”. Cho dù đào bới bao nhiêu trên mảnh đất hình vuông này, nó cũng sẽ tự động san bằng. Ở phía đông và phía tây của Kho Kinh sách, mỗi bên đều có một phòng bên trong.
-
Điện Hoàng Đế Huyền Tông, còn được gọi là Đình Ngắm Trăng, được cho là nơi Huyền Tông, khi còn là một nhà sư tại chùa Tương Nham, thường ngắm trăng và thở dài mỗi đêm, cầu nguyện trời ban phước lành cho tất cả chúng sinh. Sau khi lên ngôi, ông đã xây dựng đình này ở đây. Cách Đình Ngắm Trăng khoảng 6 mét về phía đông, có một bia đá được dựng lên dưới thời trị vì của Hoàng đế Ung Chính nhà Thanh để kỷ niệm việc xây dựng lại Điện Hoàng Đế Huyền Tông. Bia đá cao hơn 3 mét, có phù điêu hai con rồng chơi với một viên ngọc ở trên đỉnh, và bốn chữ “Tiên Tương Nham” được khắc bằng chữ triện ở giữa.
Những cây cổ thụ và nổi tiếng
Chùa Tương Nhan hiện có 268 cây cổ thụ các loại, bao gồm 102 giống như bách, bồ hòn, thông, tử vi, đàn hương, mộc lan, bạch quả và bạch dương. Trong số đó, có 36, 48, 44, 78 và 62 cây có niên đại từ các triều đại Đường, Tống, Nguyên, Minh và Thanh. Một số cây có tên gọi rất thú vị:
-
Cây Hoa Mỹ Nhân Ôm Trượng : Trong lùm tre ở góc đông bắc chùa Tương Nha, có hai cây hòa làm một. Thân chính của cây bạch dương cao thẳng tắp, vươn lên trời như một vị tướng. Cây kia, được biết đến với tên gọi “Tiểu Mỹ Nhân Nam” ở vùng nhiệt đới, quấn chặt lấy thân chính. Vỏ cây được bao phủ bởi nhiều lớp rễ nhỏ li ti, mảnh như sợi tóc, hút chất dinh dưỡng từ thân chính, “vị tướng”, trong một vòng ôm siết chặt, cùng nhau sinh trưởng và phát triển. Vì vậy, người ta gọi hai cây này là “Hoa Mỹ Nhân Ôm Trượng”.
-
Đôi cây cổ thụ ngàn năm tuổi : Chùa Tương Nhan có hai cây bạch quả với lịch sử hơn 1.300 năm. Một cây nằm bên ngoài cổng núi, cây còn lại ở phía trước điện Vi Đà. Hai cây cách nhau 40 mét, rễ của chúng nối liền nhau dưới lòng đất, còn cành và lá thì vươn lên không trung, giống như một đôi cây yêu nhau đã bên nhau ngàn năm.
-
Cây Ngứa : Đây là một cây tử vi 300 năm tuổi. Thân cây nhạy cảm như cây mimosa, và nó sẽ run lên khi bị chạm vào.
Cảnh quan chính
-
Hang Song Thạch (Shuangshidong) là một vách đá cách chùa 1.000 mét, bên trong có hai hang đá hình dạng giống hệt nhau. Bên trong hang có những tác phẩm điêu khắc tinh xảo. Hang Song Thạch được xây dựng vào năm đầu tiên của niên hiệu Huyền Hà (1119) bởi nhà sư Bắc Vân Vũ Cổ của chùa Tương Nham. Vào thời Huyền Hà, các nhà sư Bạch Long và Đốc Lâm đã tu tập Thiền trong hang động này.
-
Hang Shuilian nằm trên sườn núi Dương Đông, phía dưới hang Shuangshi. Một dòng suối trên núi chảy xuống thành nhiều nhánh qua vách đá, tạo nên những nhũ đá tuyệt đẹp. Nơi này được gọi là hang Shuilian.
-
Câu chuyện về Tôn Bút đi thị sát vườn đào bắt đầu từ động Màn Nước đến núi Thanh Long. Nửa đường lên núi có một hang động gọi là hang Tôn Bút. Bên ngoài hang là một vườn đào rộng vài trăm mét vuông, theo truyền thuyết, đó chính là ” Vườn Đào ” mà Tôn Bút đã đi thị sát. Mỗi mùa xuân, hàng trăm cây đào nở hoa rộ, tạo nên một cảnh tượng nổi tiếng với tên gọi “Tôn Bút đi thị sát vườn đào”.