CHÂN NHƯ THIỀN TỰ

Chân Như Thiền Tự là một trong ba Đại tùng lâm Hán truyền Phật giáo nổi tiếng, nơi phát tích Thiền phái Tào Động.


(云居寺景区)

Vân Cư Sơn tọa lạc tại Cửu Giang, một vùng đất nằm bên bờ sông Trường Giang, phía tây bắc tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, nơi đây có rừng trúc, ẩn mình bên trong là danh thắng địa Chân Như Thiền Tự.

Chùa Vân Cư Chùa Vân Cư Chùa Vân Cư

Ngôi danh lam này là trọng điểm của quốc gia trong thu hút du khách thập phương hành hương chiêm bái, một trong ba Đại tùng lâm Hán truyền Phật giáo nổi tiếng, nơi phát tích Thiền phái Tào Động, một trong ngũ gia tông phái Phật giáo Trung Quốc. Kể từ triều đại nhà Đường đến nay, hương hỏa liên tiếp, sản sinh nhiều vị cao tăng thạc đức, tiền bối cư sĩ.

Chùa Vân Cư

Hương Sơn cư sĩ Bạch Cư Dị (772 - 846), Tô Đông Pha Cư sĩ (1037-1101), Thiền sư Phật Ấn (?-1098)… nhiều lịch đại văn nhân mặc khách lưu thi tác họa tại đây, hiện nay, vẫn bảo lưu khắc trên vách đá, pho tượng Phật bằng đồng vào thời đại nhà Đường, chảo nấu cơm cho một nghìn vị tăng của vua Khang Hy cúng dường, và hoa viên tháp 200 mộ tháp của chư vị lịch đại cao tăng tiền bối.

Mặt tiền sườn đồi có hồ Minh Nguyệt, phía trên sườn đồi, bảo tháp tôn trí xá lợi của Thiền sư Hư Vân, tại Tổ đình Cao Mân, tỉnh Giang Tô, chứng ngộ thấu thiền quán. Năm 1953, Ngài được chư tăng và Phật giáo đồ tôn kính lễ thỉnh ngôi vị Hội trưởng Danh dự Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc. Chủ trì chấn hưng Thiền tông, đề xướng trì giới, thực hành Nông Thiền - Tịnh song phương phát triển. Đệ tử của Ngài khắp nơi trên thế giới: Ấn Độ, Nepal, Đông Nam Á, Mỹ châu đại lục… khắp chốn đều có đệ tử của Ngài.

Chùa Vân Cư

Chân Như Thiền Tự được kiến tạo vào thời Đường Hiến Tông, niên hiệu Nguyên Hòa (806-810). Do Đường đại Cao tăng, Thiền sư Đạo Dung Tổ sư khai sơn. Đến thời Đường Hy Tông (973-888), niên hiệu Trung Hòa tam niên (883), Thiền sư Đạo Ưng thượng sơn đảm nhiệm trụ trì, thừa hành phật sự Chân Như Thiền Tự vang danh thiên hạ.

Chùa Vân Cư

Tại Vân Cư sơn 20 năm đầu, Thiền sư Đạo Ưng với tâm huyết, dốc hết sức tâm lực hoằng dương chính pháp Thiền tông, gia phong tế mật, ngôn hạnh tương ưng, tùy cơ tiếp vật, ứng xử tinh tế đối với mọi người, phấn chấn thiền phong, nhận đồ chúng hơn nghìn người vân tập tu hành.

Văn nhân kiệt tác trong giới Thiền tông đã để kỷ niệm chốn Tổ đình Chân Như Thiền Tự, như Thiền sư Viên Ngộ trước tác “Viên Ngộ Khác Cần Tâm Yếu”, Đại Huệ Tông Cảo trước tác “Tông Cảo Xích Độc”, “Thiền Lâm Bảo Huấn”, và Giới Hiển Thiền sư trước tác “Thiền môn Đoán Luyện Thuyết”, nhiều tác phẩm kinh điển giá trị được xuất phát tại sơn môn này. Các vị tao nhân mặc khách đến đây, chốn thiền môn thanh tịnh, hải chúng an hòa, tức cảnh sinh tình, ngẫu ứng phun châu nhả ngọc thành những thi thiên, văn chương kiệt tác như, Tô Đông Pha, Bạch Cư Dị, Hoàng Đình Kiên, Tần Thiểu Du, Bì Nhật Hưu, Yến Thù, Chu Hy…

Từ cổ chí kim, Chân Như Thiền Tự, như pháp tu trì, tự tiêu tự sản lấy Nông Thiền làm trọng, thành nếp gia phong nhất quán, với đạo tràng Thiền tông tối thắng, Phật giáo đồ trong và ngoài nước đều quy kính ngưỡng mộ. Quy củ nghiêm minh, nông sự rộn ràng, đạo phong tốt, được Hội trưởng Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, lão cư sĩ Triệu Phác Sơ tôn vinh Chân Như Thiền Tự, một trong tam đại bản doanh Phật giáo tiêu biểu toàn quốc.

Chân Như Thiền Tự tu hành nghiêm túc, tăng chúng uy nghi chỉnh túc, tăng tu như pháp như luật, kiên trì sớm hôm mỗi ngày hai buổi thời khóa, mỗi ngày thọ thực quá đường, sau đó tĩnh tọa bốn tuần hương, mỗi giữa và cuối tháng hai ngày bố tát, trì tụng Bồ tát giới, lấy cầu Thiền tịnh giới tiến thủ. Nhất quán kiên trì tận dụng thời gian chuyên tu, vì đại sự sinh tử, vì đại sự sinh tử cầu đạo giải thoát, phóng hạ vạn duyên, đoan tâm chính niệm từ 04 giờ sáng đến 12 giờ khuya, bất xuất thiền đường, chuyên tâm tham thiền.

Chùa Vân Cư Chùa Vân Cư

Thiền sư Hư Vân trung hưng đạo tràng Vân Cư sơn, dù bách tuế dư niên (102 tuổi) nhưng Ngài vẫn nỗ lực trong lao động, xúc tiến phát triển nông thiền. Tham thiền kiết thất, giảng kinh truyền giới, cảnh tượng nhất phái nông thiền, nghiễm nhiên bách trượng gia phong.

Dù bách tuế dư niên, Thiền sư Hư Vân thân thể ngày càng suy yếu, nhưng vẫn miệt mài với thời gian quý báu cho hậu thế qua mấy tác phẩm cuối đời “Trùng kiến Vân Cư sơn Chân Như Thiền Tự sự lược); Vân Cư sơn chí Trùng tu lưu thông tự”; nhờ Cư sĩ Sầm Học Lữ ở Hồng Kông trùng tu xuất bản “Vân Cư sơn chí”. Biết thân tứ đại sẽ theo quy luật tuần hoàn, trở về bản nguyên, Ngài gọi môn đồ đến di huấn lời từ biệt.

Tứ chúng vây quanh, Ngài mỉm cười di huấn trước khi trút hơi thở rằng: “Cần tu tam vô lậu học, Giới, Định, Tuệ, tức dập tắt tam độc Tham, Sân, Si”. Ngừng giây lát, Ngài nói tiếp: “chính niệm chính tâm, dưỡng xuất tinh thần không sợ hãi, độ nhân thế. Các người vất vả nhiều rồi, hãy nghỉ sớm đi!”. Ngài an nhiên thiền tọa, xả báo thân, nhập thể tính chân như vào ngày 13/10/1959, trụ thế đại thụ 120 xuân.

Chùa Vân Cư

Hiện nay, Hòa thượng Nhất Thành, phương trượng trụ trì Chân Như Thiền Tự, đương kim Phó Hội trưởng Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc, thực hiện chính sách tôn giáo, đã khai thác canh tác hơn 3.600 hecta đất núi rừng, hơn 140 hecta ruộng lúa, gần 80 hecta đất canh tác hoa màu, lao tác tự cấp, trong và ngoài nước tăng tục đều than tán ngưỡng mộ quy cũ tòng lâm.

Chùa Vân Cư

Khu thắng cảnh núi Vân Cư nằm ở phía tây nam huyện Vĩnh Hiu. Quốc lộ 105 và 316 chạy dọc theo sườn núi, trải rộng trên diện tích 216 km vuông.

Đỉnh chính đạt độ cao 969,4 mét, và có con đường bê tông dài 15 km dẫn lên đỉnh. Núi Vân Cư là một ngọn núi nổi tiếng với lịch sử lâu đời. Nơi đây tự hào sở hữu phong cảnh hùng vĩ và những khu rừng yên bình.

Khi lên đến đỉnh, du khách sẽ được chiêm ngưỡng một khung cảnh khác biệt: những đỉnh núi cao chót vót xen kẽ với một vùng đồng bằng rộng lớn, điểm xuyết những khu vườn, hồ nước và cánh đồng, trông giống như một thành phố lớn hay một đóa sen đang nở rộ, vì vậy nó còn được gọi là Thành phố Sen. Từ thời xa xưa, núi Vân Cư đã được ca ngợi về vẻ đẹp tự nhiên và vị thế là một trung tâm Thiền Phật giáo nổi tiếng. Người xưa mô tả nó là “ngọn núi đẹp nhất Giang Tây, nổi tiếng khắp bốn trăm tỉnh”, và “một danh lam thắng cảnh đẳng cấp thế giới, Vân Cư trên trời”. Ngày nay, nó là một danh lam thắng cảnh trọng điểm cấp tỉnh.

Nằm trong Thành phố Hoa Sen trên đỉnh núi Vân Cư, có những khu rừng tre rộng lớn, trải dài bất tận, và ẩn sâu trong những khu rừng này là địa điểm Phật giáo Thiền tông nổi tiếng, chùa Chân Như. Chùa Chân Như là một ngôi chùa mở quốc gia trọng điểm và là một trong ba tu viện kiểu mẫu của Phật giáo Hán ở Trung Quốc, là cái nôi của trường phái Phật giáo Tào Đông. Từ thời nhà Đường, nơi đây đã là một địa điểm tôn giáo quan trọng, sản sinh ra nhiều vị cao tăng nổi tiếng. Nhiều nhân vật văn chương trong lịch sử, bao gồm Bạch Cư Dị, Tô Đông Pha và Phật Âm, đã để lại thơ ca và tranh vẽ tại đây. Hiện nay, chùa vẫn còn lưu giữ các hình khắc trên vách đá, một tượng Phật bằng đồng thời nhà Đường, chiếc vạc nghìn vị cao tăng của Khang Hy, và hơn 200 bảo tháp chứa lăng mộ của các vị cao tăng nổi tiếng trong và ngoài nước. Vào những năm 1950, Hòa thượng Xuyun, chủ tịch danh dự của Hội Phật giáo Trung Quốc, đã chủ trì chùa Chân Như. Trụ trì hiện tại, Thiền sư Yicheng, là phó chủ tịch của Hội Phật giáo Trung Quốc. Hàng năm, hàng trăm nghìn người hành hương và khách du lịch đến thăm ngọn núi này.

Trên đỉnh núi Vân Cư, một hồ nước dài và phẳng lặng như gương soi bao quanh cổng chùa. Có hình dáng như vầng trăng, hồ được đặt tên là Hồ Minh Nguyệt.

Khi mặt trời mọc, ánh sáng vàng rực rỡ trải dài trên mặt hồ, chiếu sáng các điện thờ; vào ban đêm, dưới ánh trăng sáng, mặt hồ phản chiếu hình ảnh ngôi chùa cổ kính, tạo nên một khung cảnh thanh bình tuyệt vời. Nhà sư Nguyên Phong từng nói: “Mặt hồ trong vắt trải dài trên những đỉnh núi hỗn độn, phản chiếu bầu trời trong xanh như một tấm gương cổ xưa;…""Cảnh sắc Vân Cư trên bầu trời thật tráng lệ, một hồ nước phản chiếu sắc thu của vạn núi non.”

Đi qua con đèo bên cạnh hồ Minh Nguyệt, người ta sẽ thấy bảo tháp chứa xá lợi của Thiền sư Xuyun trên sườn đồi. Xuyun (1860-1959), một vị cao tăng nổi tiếng thời hiện đại, có họ thế tục là Tiêu, sau này lấy pháp danh là Xuyun. Vốn xuất thân từ Tương Hương, Hồ Nam, ông xuất gia tại chùa Vĩnh Quyền trên núi Cổ Sơn ở Phúc Châu khi còn trẻ. Sau đó, ông thọ giới đầy đủ, nhận y phục và bát khất thực từ Miêu Liên, trở thành người kế thừa đời thứ 43 của phái Lâm Cơ. Ông sống ẩn dật trong một hang động trên núi Cổ Sơn nhiều năm, chỉ mặc một chiếc y phục quanh năm và thường sống bằng rau dại. Năm 27 tuổi, ông rời Cổ Sơn để đi du hành và học Thiền dưới sự hướng dẫn của nhiều bậc thầy. Để báo đáp ơn cha mẹ, ông đã dành ba năm lạy mỗi ba bước chân từ núi Phổ Đà đến núi Ngũ Đài. Ông cũng từng hành hương từ Tây Tạng đến Ấn Độ, Sri Lanka và Myanmar để tỏ lòng tôn kính các địa điểm Phật giáo. Tương truyền rằng, có lần nước sôi bắn vào tách trà khiến nó rơi vỡ, dẫn đến sự giác ngộ của ông. Ông từng là trụ trì của núi Jizu ở Vân Nam, chùa Nanhua ở Quảng Đông và chùa Vân Môn. Năm 1953, ông được mời làm thành viên danh dự của Hội Phật giáo Trung Quốc. Xu Yun đã chủ trì công cuộc phục hưng Thiền tông, chủ trương giữ giới và thực hiện hệ thống kết hợp nông nghiệp và tu tập Thiền, nhấn mạnh cả Thiền tông và Tịnh Độ giáo. Ông có rất nhiều đệ tử, với tín đồ ở Ấn Độ, Nepal, Đông Nam Á và châu Mỹ.

Núi Vân Cư, trước đây được gọi là “Núi Ou”, nằm ở phía tây nam của huyện Yongxiu, có diện tích khoảng 300 km² với độ cao trung bình 800 mét. Do luôn bị mây và sương mù bao phủ, nó còn được gọi là “Núi Vân Cư” hoặc đơn giản là “Vân Sơn”.

Nơi đây, những đỉnh núi sừng sững như những hàng dài, hiểm trở và hùng vĩ, chồng chất lên nhau; vô số cây cối tươi tốt, tre và cây vươn tới trời, một cảnh tượng thiên nhiên tuyệt đẹp; những dòng suối trên núi chảy vào hồ, trong vắt như ngọc, không tì vết; núi non bằng phẳng và thoáng đãng, với những cánh đồng xanh mướt trải dài, một phong cảnh hữu tình. Chùa Chân Như, ngôi chùa tổ của Phật giáo phái Cao Đông, tọa lạc tại “thiên đường vô song, như chốn mây trời” này.

Bởi vì những đỉnh núi xung quanh giống như cánh sen, và ngôi chùa trong núi giống như nhụy sen, nên Phật giáo tôn kính khu vực có chùa Chân Như như là “Thành phố Hoa Sen”.

Nguồn gốc của chùa Chân Như Chùa Chân Như được xây dựng lần đầu tiên vào thời Nguyên Hòa của Hoàng đế Hiến Tông nhà Đường (806-810). Vị trụ trì sáng lập, Đạo Quang, đã cùng với nhà sư nổi tiếng Tư Mã Thiên Đào đến núi Vân Sơn. Khi đến núi, họ thấy đất bằng phẳng như lòng bàn tay, hồ nước trong vắt như gương, và những ngọn núi xung quanh tạo thành một hàng rào bảo vệ, giống như một thiên đường thanh bình và tao nhã, tách biệt hoàn toàn khỏi sự ồn ào náo nhiệt của thế giới.

Vì vậy, Đạo Long dẫn các đệ tử đi khai hoang, tu tập trên núi và xây dựng chùa. Danh tiếng của chùa nhanh chóng lan rộng, thu hút tín đồ như gió. Hoàng đế Lý Xuân của nhà Đường đã đích thân ban cho chùa cái tên “Chùa Vân Trại”. Sau đó, Đạo Long và các đệ tử Quan Khánh và Quan Huy đã truyền bá Phật giáo ở đây, kéo dài khoảng 70 năm. Vào năm thứ ba thời Trung Hòa của Hoàng đế Lý Xuân nhà Đường (883), theo lời mời của Trọng Xuyên, quan trấn thủ Trấn Nam ở trung tâm Giang Tây, Đạo Anh, lúc đó được biết đến là một “đại sư của phái Nam giáo”, đã lên núi làm trụ trì, nhờ đó khiến chùa Trấn Trại nổi tiếng khắp cả nước.

Đạo Anh (khoảng 902), tên thế tục là Vương, quê ở Yutian, Jimen (tỉnh Hà Bắc). Đạo Anh, người gốc huyện Yutian, sở hữu tài năng phi thường và sự hiểu biết sâu sắc. Với tinh thần trong sáng và phong thái tao nhã, từ nhỏ ông đã khát vọng mang lại lợi ích cho tất cả chúng sinh. Ông đã đi khắp nơi, tìm kiếm sự hướng dẫn từ nhiều bậc thầy lỗi lạc, và sau này trở thành người lãnh đạo các đệ tử của Lương Giới, một bậc thầy của trường phái Thiền tông Cao Đông. Vào cuối thời nhà Đường, thời kỳ hoàng kim của Thiền tông Nam Phương, Đạo Anh đã dành 20 năm để truyền bá truyền thống Thiền tông “gia truyền tỉ mỉ, lời nói và hành động tương xứng, thích ứng với hoàn cảnh và kết nối với mọi người bằng lời nói”, đào tạo hơn một nghìn đệ tử.

Trong số đó, có 19 người đặc biệt nổi tiếng, được ghi chép trong Vũ Hoàn Huy Viên, bao gồm Vân Cự Hoài Việt, Đạo Cường, Sơn Xương, Thông An Phi, Quý Tông Hoài Vân, Đan Quyền, Hàng Châu Phù, Tỳ Vân Gia, Nam Đài và Dương Châu Phong Hoa, tất cả đều trở thành những nhân vật nổi bật trong Phật giáo. Họ đã kế thừa và phát triển hiệu quả trường phái Cao Đông, truyền bá nó khắp miền Bắc và miền Nam Trung Quốc. Vân Cư của Tí La đã nhận được sự chấp thuận của Đạo Anh và trở về… Sau khi thành lập trường phái Cao Đông ở Hàn Quốc, chùa Quang Trị được xây dựng trên núi Ô-mê-ru, thành lập chi nhánh Ô-mê-ru của phái Cao Đông. Sau thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc, phái Cao Đông trên khắp đất nước thực sự đi theo tinh thần của Đạo Anh.

Theo nghĩa này, chùa Chân Như là nguồn gốc của phái Cao Đông. Sau thời nhà Tống, các trường phái Vi Dương, Vân Môn và Pháp Nham lần lượt bị mai một, trong khi trường phái Lâm Cơ và Cao Đông được bảo tồn.

Năm 1223, nhà sư Dogen người Nhật Bản đến Trung Quốc để tìm kiếm giáo pháp Phật giáo, giới thiệu phái Cao Đông đến Nhật Bản. Giáo lý của ông cũng dựa trên phương pháp của Vân Cư Đạo Anh. Ngay cả ngày nay, cộng đồng Phật giáo Nhật Bản vẫn coi chùa Chân Như là một trong những ngôi chùa tổ của phái Cao Đông.

Ngày nay, phái Cao Đông được truyền bá rộng rãi cả trong và ngoài nước, với hàng chục triệu dòng truyền thừa. Cố trụ trì chùa Nam Hoa, được biết đến là hậu duệ đời thứ 50 của tông phái Cao Đông, Weiyin Jinguo, đã tích cực quảng bá “Dongyun Zhengzong” (dòng chính thống của Dongyun) và lập Đạo Anh làm tổ thứ hai.

Hơn một nghìn năm sau, tinh thần của Đạo Anh vẫn còn lưu truyền, điều này đủ để chứng minh ảnh hưởng lâu dài của Đạo Anh và chùa Chân Như.

Đạo Anh giữ một vị trí quan trọng trong lịch sử Phật giáo.

Ông đã truyền bá Phật giáo tại núi Vân Cư, thu hút hơn 1500 đệ tử vào thời kỳ đỉnh cao. Các quan trấn thủ Trấn Nam và Kinh Nam, Zhong Chuan và Cheng Rui, đã hỗ trợ đáng kể, mỗi lần quyên góp hơn mười nghìn lượng bạc. Các chùa chiền và ký túc xá được tu sửa, việc dâng hương và các nghi lễ tôn giáo phát triển mạnh mẽ. Cho dù xét về chiều sâu và bề rộng của giáo lý hay số lượng đệ tử đông đảo, ông đã trở thành hình mẫu cho các tu viện Phật giáo trên khắp cả nước, và Đạo Anh được cả tăng lữ lẫn cư sĩ tôn kính như một vị sư đức hạnh và đáng kính.

Hoàng đế Đường Tây Tông hết lời ca ngợi ông và ban cho ông danh hiệu “Chùa Long Xương Thiền tông”. Năm thứ hai niên hiệu Đường Thiên Hậu (902), Đạo Anh viên tịch tại chùa, và Hoàng đế Đường Triệu Tông đã truy phong cho ông danh hiệu “Sư phụ Hồng Quyết”. Năm đầu tiên niên hiệu Đại Trung Chân Phủ nhà Tống (1008), Hoàng đế Tống Chân Tông, Triệu Hành, đích thân khắc tấm bia “Chùa Chân Như” bằng chữ bay trắng và tặng cho chùa, tấm bia này vẫn được sử dụng cho đến ngày nay. Chú trọng

Từ khi thành lập, chùa Chân Như luôn kiên định tu tập Phật pháp, chú trọng cả nông nghiệp và thực hành Thiền tông, trở thành một truyền thống gia tộc bền vững. Chùa Chân Như, nổi tiếng là một tu viện Thiền tông hàng đầu, được các Phật tử trong và ngoài nước ngưỡng mộ. Nhờ những quy tắc nghiêm ngặt, công việc nông nghiệp bận rộn và bầu không khí tu viện tuyệt vời, chùa đã được Triệu Phụ Chu, nguyên chủ tịch Hội Phật giáo Trung Quốc, chỉ định là một trong ba ngôi chùa kiểu mẫu của cả nước.

Chùa Zhenru thực hành thiền Zen nghiêm ngặt, các nhà sư giữ gìn phẩm hạnh trang nghiêm và tuân thủ nghiêm ngặt Phật pháp. Họ thực hiện các nghi lễ cầu nguyện buổi sáng và buổi tối hàng ngày, ăn uống đầy đủ, và sau bữa tối, họ ngồi thiền với bốn nén hương. Vào ngày mùng 1 và ngày 15 hàng tháng, họ trì tụng giới luật, nỗ lực tiến bộ cả trong Thiền và giới luật. Họ luôn tận dụng “ba thời gian rảnh rỗi” (thời gian rảnh, mùa mưa và mùa đông) để chuyên tâm tu tập. Vào các ngày trong tuần, người mới bắt đầu tham dự các buổi thuyết pháp trong thiền đường, tập luyện chân và suy ngẫm các công trình thiền định. Mùa đông, với mùa thu hoạch và những ngọn núi phủ đầy tuyết, là mùa tốt nhất để tu tập siêng năng và là thời điểm mà bầu không khí Thiền tại chùa Zhenru mạnh mẽ nhất. Sau khi xin phép trụ trì, các nhà sư kiêng làm việc đồng áng và phục vụ, từ bỏ mọi ràng buộc thế tục và tập trung tâm trí vào tu dưỡng tâm linh. Chánh niệm, từ 4 giờ sáng đến nửa đêm, bao gồm việc tập trung hoàn toàn vào thiền định trong thiền đường, trong thời gian bảy tuần (7 ngày một tuần, tổng cộng 49 ngày). Khi khóa tu bảy tuần kết thúc, thường cũng là cuối năm. Những người chưa từng tham gia khóa tu bảy tuần khó có thể thực sự hiểu được bản chất của nó.

Khóa tu nhấn mạnh cả thiền định và nông nghiệp. Từ thời trụ trì Đạo Anh, truyền thống canh tác “không làm việc, không ăn” đã được duy trì. Hơn 50 vị trụ trì đã giữ vững quy tắc nghiêm ngặt này, “thực hành trong hành động” (như Xu Yun đã nói). Các vị sư trong tu viện sống một cuộc sống giản dị, chịu đựng gian khổ trong lao động chân tay, nhưng họ luôn tràn đầy niềm vui Phật pháp, bình an và thanh thản.

Vào thời Thiệu Hưng của nhà Tống, Thiền sư Phạm Phì, khi chủ trì Phật pháp, đã mô tả sinh động truyền thống canh tác của tu viện trong một bài giảng: “Chúng ta tìm thấy sự bình an và mục đích sống ở đâu trong suốt mười hai giờ của ngày? Khoác áo mưa rơm, chúng ta đứng bên cạnh ngàn đỉnh núi, múc nước tưới rau trước mặt Ngũ Đại Trưởng Lão.” Vào thời trị vì của Hoàng đế Vạn Lịch nhà Minh, sư Trấn Nguyên Hồng Đạo đã đến núi và ẩn cư trong ba năm. Ông dẫn dắt các môn đồ “dọn dẹp bụi rậm và xây nhà tranh”. Trong vòng ba năm, họ đã xây dựng được “Vạn Lý Trường Thành”, dài hàng trăm thước.

Vào thời Trùng Chân của nhà Minh, cao tăng Quan Hòa (còn được gọi là Trấn Vũ) trụ trì chùa Chân Như. Ông sống một cuộc đời giản dị và khổ hạnh, bằng lòng với cảnh nghèo khó, không vướng bận chuyện thế tục và đích thân tham gia trồng lúa. Ông đã sáng tác bài thơ cổ bảy chữ “Bài ca trồng lúa”.

Tác phẩm dài này, gồm vài nghìn chữ, sử dụng thơ ca để diễn đạt triết lý Thiền và nông nghiệp như một phép ẩn dụ cho Thiền, thể hiện một tác phẩm nhấn mạnh cả nông nghiệp và Thiền. Chúng ta hãy trích dẫn một đoạn:

Này các Phật tử, hãy cùng tôi đến những cánh đồng lầy lội.

Kéo cào, quất trâu thật là vui sướng, kéo lê bùn đất mà chẳng chút lo lắng.

Bờ ruộng được đánh dấu rõ ràng, mương rãnh nước trong veo, bùn đất phẳng lặng như lòng bàn tay.

Hãy nhặt từng cọng lúa lên và trồng từng cây một, đảm bảo chúng được trồng chính giữa, rộng hẹp, ngang dọc.

Các góc ruộng được làm nghiêng, đường lúa thẳng tắp, tạo thành những hàng lúa như tơ lụa.

Ruộng ruộng giống như y phục được ban phước của Đức Phật, lúa giống như tấm lưới đan dày đặc của Bà La Môn. Này các Phật tử, hãy cùng tôi đến, đúng thời điểm và đúng mùa, đừng trồng quá sát nhau. Cứ mỗi cọng lúa được trồng, một vị Phật hiện ra; cứ mỗi nghìn cọng lúa, vạn cọng lúa, tất cả đều là Phật.”

Trong thời kỳ chuyển giao Minh - Thanh, sự tàn phá của chiến tranh đã ảnh hưởng đến chùa Chân Như. Thiền sư Jiexian (còn được gọi là Huishan) kế vị ông làm trụ trì, tập hợp những tài năng Phật giáo xuất sắc nhất để phục hồi ngôi chùa đổ nát và khôi phục lại vinh quang xưa.

Jiexian, một học giả dung hòa Nho giáo với Phật giáo, sở hữu tài năng xuất chúng và đã sáng tác bài thơ bảy chữ “Cánh đồng trên mây”, thể hiện tình yêu của ông dành cho nông nghiệp và Thiền:

Cánh đồng trên mây cao vút trên những đám mây hỗn độn, ngoài kia là những cánh đồng xanh mướt.

Ngũ Đinh từ chùa chiền ngồi ngắm nhìn hàng trăm mẫu hồ và bầu trời dâng trào?

Dải Ngân hà về đêm gặp bóng áo cà sa của nhà sư, cò và sếu lao về phía khói từ cái cày và cái bừa.

Cùng nhau học cách cày ruộng, các vị sư và nông dân đội mũ rơm bên cạnh hoàng hôn.

Thiền sư Yuanpeng (còn được gọi là Yanlei) kế vị ông, thừa hưởng phong cách Thiền của các bậc tiền bối. Ông đã mua thêm hai trang trại nữa với tổng diện tích 60 mẫu, sưu tầm các tác phẩm từ các triều đại trước và biên soạn bộ sách 20 tập “Sử ký núi Vân Cư”. Ông cũng sáng tác bài thơ “Cánh đồng trên mây”:

Những cánh đồng bằng phẳng lưng chừng trời thưa dân, ngôi làng cô đơn trải dài, bao quanh là những đỉnh núi hỗn độn.

Mưa mù mịt khói và tiếng chim bồ câu vang vọng trong tổ; mũ tre và mây theo bước chân của đàn cò trắng trên mặt nước.

Những cây bách xanh ngọc bích đung đưa trong gió, những cánh đồng lúa gợn sóng; làn gió thơm mang theo hương thơm của hoa lúa chín.

Truyền thống làm nông lâu đời của gia đình vẫn tiếp tục; những bài hát của người nông dân vang vọng trên đường về nhà khi mặt trời lặn.

Khi Hòa thượng Xuyun phục dựng Tu viện Vân Cư, ngài đã 120 tuổi, nhưng vẫn “cần cù cày cấy đất đai bằng cuốc liềm”.

Ngài dẫn dắt các nhà sư cày ruộng, xây gạch, tổ chức các khóa tu thiền, thuyết pháp và truyền giới - một cảnh tượng Thiền nông nghiệp, gợi nhớ đến trường phái Bạch Chưởng. Hòa thượng Xuyun từng viết một bài thơ: “Bát khất thực được dâng trước chùa; y phục của người nông dân tràn ngập quê hương.”

Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Thiền sư Yicheng, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Trung Quốc, và phù hợp với chính sách tôn giáo của Đảng, chùa Zhenru hiện sở hữu hơn 3.600 mẫu rừng, bao gồm 780 mẫu rừng thông, 610 mẫu rừng tranh, 220 mẫu thông Hoàng Sơn, 40 mẫu rừng thông gãy và 100 mẫu trồng chè. Ngoài ra, còn có hơn 140 mẫu ruộng lúa và gần 80 mẫu đất khô. Nơi đây trù phú các loại cây như thông, thông Hoàng Sơn, tre, chè, hạt dẻ, táo gai và kiwi. Chùa cũng sản xuất hơn một trăm loại dược liệu quý như nhân sâm và đa long não. Các nhà sư của chùa Zhenru thực hành thiền định đồng thời tham gia vào nông nghiệp, hoạt động canh tác của họ thấm đẫm triết lý Thiền. Sự kết hợp giữa nông nghiệp và Thiền, đạt được sự tự túc thông qua lao động, đã nhận được sự ngưỡng mộ của các nhà sư và cư sĩ trong và ngoài nước.

Chùa Phục Hưng Chân Lý do Thiền sư Xuyun thành lập vào thời Nguyên Hòa của nhà Đường và hưng thịnh liên tục cho đến nhà Thanh, trở thành tu viện lừng lẫy nhất qua nhiều đời tổ sư.

Từ khi Thiền sư Daorong sáng lập, tiếp theo là Đạo Anh, và sau này là các Thiền sư như Tề Thiền sư, Dung Thiền sư, Lão Phụ Thuận, Phật Ân Liêu Nguyên, Nguyên Vũ Khắc Ân, và Đại Huy Tông Cao, đều từng là trụ trì. Trong số những người truyền dạy giáo lý có Triệu Chu Thần, Vân Môn Yên, Càn Trư, Đông Sơn Công, Nguyên Thông Tú, và Chân Kinh Văn; trong số các cư sĩ có Bạch Cư Diệc, Tỳ Đông Pha, Hoàng Đình Kiệt, Tần Thiếu Du, Lữ Cư Nhân, và vô số người khác.

Tuy nhiên, trong cuộc xâm lược miền Trung Trung Quốc của Nhật Bản, lợi dụng địa hình hiểm trở và nơi ẩn náu dễ dàng của Vân Sơn cho quân du kích, chúng đã đốt cháy toàn bộ tu viện, chỉ còn lại bức tượng Phật Vairocana bằng đồng lớn ngồi giữa khói bụi hoang tàn và cỏ dại mọc um tùm. Ngày 14 tháng 8 năm 1953, theo yêu cầu của trụ trì Xingfu của chùa Zhenru, Xuyun, cùng với Guoyi (sau này là trụ trì chùa Donglin ở Lushan) và Dacheng, ở tuổi 114, đã từ chùa Dalin ở Lushan đến Vân Sơn để leo núi tỏ lòng tôn kính tổ tiên.

Nhìn thấy chỉ toàn đổ nát và cỏ dại mọc um tùm, lòng ông nặng trĩu, và ông thề sẽ xây dựng lại đền thờ tổ tiên, sáng tác bài thơ “Suy nghĩ trên đường leo núi” để bày tỏ quyết tâm của mình:

Chùa Zibo than khóc đồng cỏ, bốn triều đại thay đổi, nỗi buồn nhân đôi.

Máu của Brahma văng tung tóe trên thanh kiếm giữa hai lông mày, khát vọng dân tộc đặt trên khuỷu tay.

Giai điệu tao nhã kết thúc dưới ánh trăng thu trắng, cuộc thảo luận về Thiền tông hướng thẳng đến những ngọn núi chạng vạng.

Thân vàng lộ ra sâu ba thước trong cỏ, mặt trời lặn treo trên Ngũ Đại Đỉnh.

Xu Yun (1840-1959), còn được biết đến với tên Guyan và Yanche, với pháp danh Deqing, đã lấy tên Xu Yun sau tuổi 50 và đổi tên thành Huanyou. Ông là ủy viên của Ủy ban Toàn quốc Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc và là chủ tịch danh dự của Hội Phật giáo Trung Quốc. Ông đã cư ngụ tại chùa Yunshan trong sáu năm, sống trong một am thất giản dị, “đặt nền móng cho công trình xây dựng ban đầu và cải tạo đất đai”.

Người dân từ khắp nơi đổ về chùa, lập nên “Nông trại Tăng đoàn”, canh tác hơn 180 mẫu ruộng lúa và hơn 70 mẫu đất khô. Họ cũng trồng cây ăn quả và chè, chế biến tre và các sản phẩm từ gỗ, đạt được sự tự cung tự cấp cơ bản. Đồng thời, một dự án tái thiết toàn diện đã được khởi động, được Xu Yun lên kế hoạch và chỉ đạo tỉ mỉ, dựa trên mô hình các ngôi chùa nổi tiếng như Gushan, Nanhua và Yunqi. Trục chính của chùa gồm một cổng núi hướng về phía tây và một đường thẳng nối liền Thiên Vương Điện, Vi Đà Điện, Đại Phật Điện và Kho Kinh.

Phía trước cổng núi là Hồ Minh Nguyệt và đèo Triệu Châu, phía sau là vườn hoa. Các công trình của chùa được bố trí thành hai hàng, với Đại Vi Đà Điện ở giữa.

Bên trái là Khu ở của trụ trì, Điện Tri Ân, Khu ở của khách, Nhà bếp, Phòng ăn và Sân phơi, phía sau là Trường Thọ. Bên phải là Khu ở của Phật Di Lặc, Điện Tây Hồi, Điện Tái Sinh, Điện Công, Khu ở của khách, Khu tụng kinh, Thiền đường và Khu ở của giám thị, còn Khu ở của trụ trì và Phòng Thiền nằm xa hơn về phía sau. Có 132 tượng Phật tuyệt đẹp.

Ngoài ra, tháp Hải Hội được xây mới và vô số tháp tổ được sửa chữa. Chùa được trùng tu toàn diện, các di tích lịch sử được phục dựng và sửa chữa. Hồ Minh Nguyệt được nạo vét, và các dòng suối Bixi và Gaixi cũng được nạo vét. Một con đường núi dài 18 dặm (khoảng 9 km) được xây dựng trên núi phía bắc, cùng với cầu Long Vương, cầu Thành Vân, cầu Vân Âm và cầu Phi Hồng được xây dựng dọc theo tuyến đường. Cầu “Ấn Phật” được gia cố. Danh lam thắng cảnh “Hòn đá Tâm Biết Nói” của Tô Đông Pha cũng được thêm vào. Toàn bộ công trình tái thiết hoàn thành vào tháng 7 năm 1959.

Ở tuổi 120, sức khỏe ngày càng suy yếu, nhưng sư phụ Xuyun, dù tuổi cao, vẫn viết “Tóm tắt về việc tái thiết chùa Chân Như trên núi Vân Cư” và “Lời tựa cho việc tái bản cuốn Địa danh núi Vân Cư”, đồng thời ủy thác cho Phật tử tại gia Hồng Kông Cân Xuelu hiệu đính và xuất bản cuốn “Địa danh núi Vân Cư”. Trên giường bệnh, ông dặn dò các nhân viên trong chùa: “Nếu các con hỏi ta lời trăn trối cuối cùng, ta chỉ có thể nói rằng: ‘Hãy siêng năng tu tập giới luật, định tâm, trí tuệ, và diệt trừ tham lam, giận dữ và vô minh.’”

Vào lúc 1 giờ 45 phút sáng ngày 13 tháng 9 âm lịch năm 1959, Hòa thượng Xuyun viên tịch tại túp lều tranh của mình ở chùa Vân Cư. Vị cao tăng lỗi lạc này đã đột ngột rời bỏ thế gian ở tuổi 120, sau 101 năm tu hành. Suốt cuộc đời, Hòa thượng Xuyun là một người có hoài bão lớn và ý chí kiên định, lòng từ bi sâu sắc và sự cần cù trong tu tập. Ông đã viếng thăm 15 tu viện và phục hưng sáu ngôi chùa nổi tiếng: chùa Trấn Sinh trên núi Cửu Tử, chùa Vân Khâu ở Côn Minh, chùa Vĩnh Quyền trên núi Cổ Sơn, chùa Nam Hoa ở Thiệu Quan, chùa Đại Giác ở Vân Môn và chùa Chân Như ở Vân Cư. Ông đã trùng tu hơn 80 ngôi chùa và tu viện, là đệ tử đời thứ 43 của phái Lâm Cơ, đời thứ 47 của phái Tào Đông, đời thứ 8 của phái Dương Dương và đời thứ 12 của phái Vân Môn. Ông một mình dung nạp các dòng pháp của năm phái, khôi phục ánh sáng trí tuệ và phục hưng truyền thống Thiền tông, cống hiến hết mình cho việc truyền bá Phật pháp trong nhiều thập kỷ. Ông xuất gia, thọ giới, thọ ấn và quy y hơn một triệu đệ tử, thành tựu của ông vượt xa các bậc hiền triết tiền bối và đức hạnh của ông vượt trội so với những người đương thời. Chùa Chân Như là nơi tu tập cuối cùng của Thiền sư Xuyun, và phẩm chất cao quý của ông sẽ mãi mãi được lưu giữ ở đó.

Chùa Chân Như nằm trên núi Vân Cư ở phía tây bắc huyện Vĩnh Hi, tỉnh Giang Tây. Năm 1983, chùa được Quốc vụ viện chỉ định là một ngôi chùa Phật giáo trọng điểm quốc gia ở khu vực người Hán.

Núi Vân Cư được đặt tên theo những đỉnh núi thường bị bao phủ bởi sương mù. Chùa Chân Như tọa lạc trên đỉnh núi Vân Cư, bao quanh là những đỉnh núi hùng vĩ như những cánh sen kết lại, tạo nên một khung cảnh được miêu tả như sau: “Những đỉnh sen tụ lại quanh một bệ đá tráng lệ, ở giữa là một cái bát, mặt hồ mở ra như gương. Đối diện với chùa, mây mù giăng lối, nhìn xuống hồ, như thể đang trôi về phía biển .”

Chùa Chân Như được xây dựng lần đầu tiên vào thời Nguyên Hòa của Hoàng đế Hạ Tông nhà Đường (806-820 sau Công nguyên). Vào thời đó, một thiền sư tên là Đạo Quang và sư Tư Mã Tử đã đến núi Vân Cư. Khi lên đến đỉnh, họ thấy đất bằng phẳng như lòng bàn tay, mặt hồ trong vắt như gương, và các đỉnh núi xung quanh như Long Trư, Gia Sa, Lộc Châu và Tương Vương tạo thành một bức bình phong tự nhiên. Họ quyết định xây dựng ngôi chùa ở đây - Thiền viện Vân Cư. Sau khi xây dựng xong chùa, Đạo Quang cùng các đệ tử Quan Khánh và Quan Huy đã cư ngụ ở đó khoảng 70 năm. Vào năm thứ ba niên hiệu Trung Hòa của hoàng đế Đường Tây Tông (năm 883 sau Công nguyên), thiền sư Đạo Anh được mời làm trụ trì, điều này đã mang lại danh tiếng rộng khắp cho ngôi chùa.

Thiền sư Đạo Anh (835-902) là người kế thừa dòng truyền thừa Đông Sơn của phái Cao Đông, một trong năm phái chính của Thiền tông. Sau khi được Bồ Đề Đạt Ma, vị tổ đầu tiên của Thiền tông, sáng lập, phái này phân nhánh thành Nam phái (Huineng) và Bắc phái (Shenxiu) dưới thời Lục Tổ Huineng. Sau đó, nó tiếp tục phân hóa thành năm phái: Vi Dương, Linji, Cao Đông, Yunmen và Fayan. Phái Cao Đông được sáng lập bởi Lương Giới (807-869) và Bản Cơ (840-901) lần lượt tại Đông Sơn và Cao Sơn, tỉnh Giang Tây. Phái này chủ yếu đề cao tư tưởng về sự thống nhất giữa nguyên lý và hiện tượng, và mối liên hệ không bị cản trở giữa bản chất và chức năng, nhấn mạnh sự tỉ mỉ, lời nói và hành động thích hợp, và sự giao tiếp linh hoạt.

Dòng truyền thừa Cao Sơn này đã tuyệt chủng sau bốn thế hệ, chỉ còn tiếp tục thông qua dòng truyền thừa của Đạo Anh thuộc phái Đông Sơn, được truyền bá tại chùa Chân Như trên núi Vân Cư. Theo nghĩa này, chùa Chân Như là khởi nguồn của trường phái Thiền tông Cao Đông. Trong năm trường phái Thiền tông, trường phái Vi Dương, Vân Môn và Pháp Nham đã biến mất sau thời nhà Tống, chỉ còn lại trường phái Lâm Cơ và Thiền tông Cao Đông. Điều này cũng cho thấy vị trí quan trọng của chùa Chân Như trên núi Vân Trại trong lịch sử Phật giáo.

Sau khi Đạo Anh đến núi Vân Trại để truyền bá Phật giáo, một số lượng lớn tăng lữ đã tụ họp, lên đến hơn 1.500 người. Hoàng đế Lục Tông đã ban cho chùa tên gọi “Chùa Long Xương”.

Đạo Anh làm trụ trì Thiền tông Long Xương trong ba mươi năm, và sau khi ông qua đời, ông được truy phong là Thiền sư Hồng Giác. Trong thời kỳ từ Ngũ Đại đến nhà Tống, Đạo Kiếm, Đạo Xương, Hoài Việt, Hoài Môn, Đức Nguyên và Chí Thần lần lượt làm trụ trì, tiếp tục phát huy trường phái Thiền tông Cao Đông. Vào thời kỳ Đại Trung Tương Phủ của triều đại nhà Tống (1008-1016), Hoàng đế Chân Tông nhà Tống đã chiếu chỉ đổi tên ngôi chùa thành “Chân Như Thiền tông”, tên gọi này vẫn được giữ đến ngày nay.

Các trụ trì của Chân Như Thiền tông thời nhà Tống bao gồm Thanh Tây, Đạo Khâu, Âm Ân, Huệ Chân, Khâu Hoàn, Phật Âm, Tiêu Thuận, Tử Bảo và Thọ Di, những người lần lượt truyền bá các trường phái Phật giáo Pháp Nham và Vân Môn. Các trụ trì sau này bao gồm Trương Tây, Nguyên Du, Bành An, Nguyên Vũ, Tông Chân, Phạm Hoa, Vạn An, Phổ Vân, Bành An, Phả Công, Đốc An, Nghi Vi, Ký Văn, Kiềm An, Yên Thạch, Đại An, Tiêu Âm và Từ Châu, tất cả đều là những nhân vật tiêu biểu của trường phái Lâm Cơ. Trong triều đại nhà Tống, Chân Như Thiền tông đã trải qua một số đợt trùng tu lớn. Vào thời điểm đó, chùa có 500 vị sư.

Vào cuối thời nhà Nguyên, chùa Chân Như, sau hơn 300 năm hưng thịnh, đã bị thiêu rụi trong một trận hỏa hoạn. Đầu thời nhà Minh, các điện thờ, công trình kiến trúc, ruộng hồ và đất đai trên núi của chùa dần bị các gia tộc quyền lực địa phương chiếm đoạt và cướp bóc.

Năm thứ 20 niên hiệu Vạn Lịch (1592), trụ trì chùa Vạn Phễu Đường ở Bắc Kinh, Hồng Độ Hoa, đã xây dựng lại chùa Chân Như trên núi Vân Cư.

Nghe tin này, Thái hậu Từ Hi, mẹ của Hoàng đế Thần Tông, đã phái sứ đến tặng ông một chiếc áo cà sa màu tím và các vật phẩm tôn giáo khác, cùng với một bức tượng Phật Vairocana nghìn hoa bằng đồng, cao hơn 3 thước, và một bộ kinh điển Phật giáo hoàn chỉnh gồm 678 tập. Năm thứ 30 niên hiệu Vạn Lịch (1602), các điện thờ và khu nhà ở của các nhà sư được hoàn thành từng phần, và Hoàng đế Thần Tông đã đích thân khắc bia và câu đối. Câu đối trong thiền đường có nội dung: “Trí tuệ dập tắt ngọn lửa trong lòng, lòng nhân ái quét sạch bụi trần.” Bia đá khắc dòng chữ: “Ít lỗi, nhưng vẫn hoàn thành.”

Theo sử sách, Thiền sư Hồng Đạt đã ghi chép ngắn gọn về việc trùng tu chùa Chân Như, khắc lên đá và chôn cùng với các bảo vật Phật giáo khác như tượng Phật Thích Ca Mâu Ni mạ vàng cổ, bình xá xá, nghiên mực Lương Công và lư hương cổ, trong hầm mộ dưới điện thờ Phật ở chính điện để làm nơi tưởng niệm vĩnh cửu. Tương truyền những bảo vật này vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Các vị trụ trì kế nhiệm bao gồm Trấn Vũ, Ký Hi, Nguyên Bồng và Minh Hi. Cho đến triều đại nhà Thanh, chùa Chân Như tiếp tục phát triển thịnh vượng, trở thành một ngôi chùa quan trọng của phái Thiền tông ở nước ta.

Trong cuộc kháng chiến chống Nhật, chùa Chân Như bị pháo binh Nhật Bản phá hủy, chỉ còn lại tượng Phật Vairocana bằng đồng giữa đống đổ nát.

Ngôi chùa cổ kính, với “thân vàng lộ ra dưới lớp cỏ dày ba thước, và Ngũ Đại Đỉnh núi ngập tràn ánh hoàng hôn”, đã được phục hưng sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập.

Năm 1953, Hòa thượng Xuyun, chủ tịch danh dự của Hội Phật giáo Trung Quốc, đã giám sát công cuộc tái thiết. Ở tuổi 100, ngài đã dẫn dắt các vị sư khai hoang, canh tác ruộng đồng, xây gạch, xây dựng lại chùa và tạc tượng Phật mới.

Đến năm 1959, các điện thờ và khu nhà ở của các vị sư đã hoàn thành, với diện tích khoảng 6.621 mét vuông. Hơn 50 tượng Phật mới đã được tạc, và hơn 120 vị sư đã cư ngụ tại đây.

Sau khi Hòa thượng Xuyun viên tịch, Hòa thượng Xingfu và Hòa thượng Haiteng lần lượt giữ chức trụ trì chùa Chân Như. Như Thiền sư Chuanyin mô tả, các nhà sư đã hình thành một cộng đồng tu viện lớn, “canh tác đất đai, xây nhà, thiền định bảy ngày, thuyết giảng kinh sách và truyền giới - một cảnh tượng Thiền nông nghiệp, gợi nhớ đến trường phái Bạch Chưởng.”

Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, chùa Chân Như, giống như các chùa khác, đã phải chịu cảnh tượng tượng Phật bị phá hủy, điện thờ bị chiếm đóng, kinh sách bị đốt cháy và các nhà sư bị phân tán. Mãi đến Hội nghị toàn thể lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa 11, chính sách tự do tín ngưỡng mới được khôi phục và thực hiện, và chùa Chân Như một lần nữa được đặt dưới sự quản lý của các nhà sư, trở thành một ngôi chùa trọng điểm quốc gia và là địa điểm cho các hoạt động Phật giáo.

Với sự hỗ trợ của chính quyền các cấp, chùa Chân Như đã trùng tu Điện Thiên Vương, Đại Phật Điện, Kho Kinh, Phòng Ăn, Tháp Chuông, Tháp Trống, Thiền đường, Đình Xuhuai và Đình Vân Hải vào năm 1982, với diện tích 4.764 mét vuông. Tháng 9 năm 1982, “Tháp Tăng Xuyun” được xây mới, cao 5,5 mét và đường kính 3 mét, mang phong cách trang nghiêm và giản dị.

Đến cuối năm 1986, các công trình và kiến trúc bổ sung, bao gồm cổng núi, khu nhà ở của trụ trì, nhà tưởng niệm và kho chứa, đã được xây dựng.

Hơn 200 tượng Phật được đúc lại, và 41 tháp thuộc về các tổ sư tiền nhiệm, như Đạo Rong và Đạo Anh, đã được phục dựng. Tổng diện tích xây dựng đạt hơn 8.000 mét vuông, với chi phí hơn 1,4 triệu nhân dân tệ.

Một lễ cung hiến trọng thể được tổ chức vào tháng 10 năm 1987, với dòng chữ khắc “Điện thờ tráng lệ mở ra một cõi thanh tịnh, Phật pháp hưng thịnh và dòng truyền thừa tiếp nối.”

Để tưởng nhớ công lao của sư phụ Xuyun trong việc tái thiết chùa Chân Như, “Nhà tưởng niệm Xuyun” được xây dựng vào tháng 9 năm 1990.

Nhà tưởng niệm nằm trên nền nhà cũ của sư phụ Xuyun, “Yunju Maopeng”, với diện tích hơn 200 mét vuông. Toàn bộ tường ngoài được xây bằng đá granit.

Nhà thờ cao 12 mét, rộng 19,5 mét và sâu 11 mét, là công trình kiến trúc bằng gỗ và đá theo phong cách cung điện thời nhà Tống, được lợp ngói men nâu, mang vẻ ngoài giản dị và trang nghiêm. Bên trong nhà thờ có bức tượng đồng ngồi cao 1 mét, nặng 500 kg của sư phụ Xuyun.

Ông Triệu Phổ Chu, Chủ tịch Hội Phật giáo Trung Quốc, đã khắc dòng chữ ngũ âm “Nhà tưởng niệm Xuyun”. Nhà thờ cũng trưng bày hình ảnh về cuộc đời sư phụ Xuyun, các tác phẩm và đồ dùng cá nhân của ông.

Hiện nay, chùa Chân Như có hơn 70 vị sư. Trụ trì hiện tại, Thiền sư Yicheng, được kính trọng sâu sắc và là người đoàn kết các vị sư, quản lý chùa theo luật pháp quốc gia và hệ thống tu viện Phật giáo. Toàn bộ ngôi chùa yên tĩnh và sạch sẽ, có đầy đủ nội quy và quy định, chú trọng cả nông nghiệp và thiền định, mang lại bầu không khí tu viện tốt đẹp, được người dân trong và ngoài nước ca ngợi. Đặc điểm nổi bật nhất của chùa Chân Như là sự chú trọng cả nông nghiệp và thiền định.

Tương truyền rằng ngay từ thời nhà Tống, Thiền sư Faru đã chủ trương: “Mặc áo mưa rơm, đứng nghiêng bên ngoài đỉnh núi, múc nước tưới rau trước mặt Ngũ Đại Trưởng Lão.” Điều này cho thấy chùa Chân Như đã có truyền thống chú trọng cả nông nghiệp và thiền định từ thời nhà Tống. Vào thời nhà Minh, Trụ trì Zhuanyu cần cù và giản dị, chia sẻ lao động với các vị sư, và được họ vô cùng yêu mến.

Hiện nay, chùa Chân Như sở hữu hơn 3.690 mẫu rừng núi, giàu các loại cây như linh sam, tre, chè, thông Hoàng Sơn, hạt dẻ, táo gai, kiwi và các loại dược liệu quý như nhân sâm và đa thùy. Chùa Zhenru còn có 136 mẫu ruộng lúa, 20 mẫu đất khô và 6 mẫu đất trồng rau. Để bảo vệ và quản lý rừng và đất đai, chùa Zhenru đã thành lập “Trang trại rừng Sengqie”. Sau khi hệ thống trách nhiệm sản xuất nông thôn được thực hiện vào năm 1983, chùa Zhenru cũng cho các nhà sư thuê ruộng lúa và đất khô.

Với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, chùa đã ban hành nhiều quy định về sản xuất nông nghiệp, sản xuất chè, sản xuất rau, chăn nuôi gia súc và bảo vệ rừng, huy động tinh thần lao động của các nhà sư.

Năm đó, nông nghiệp, lâm nghiệp và chăn nuôi đều đạt năng suất cao. Sản lượng ngũ cốc vượt quá 60.000 cân, sản lượng chè vượt quá 300 cân, và sản lượng gỗ vượt quá 200 mét khối.

Sản lượng ngũ cốc và rau của chùa vượt quá nhu cầu của chính chùa. Cuối năm, chùa cũng chọn ra 12 công nhân kiểu mẫu được chính phủ khen thưởng.

Chùa Chân Như nằm trong số những đơn vị bảo tồn di tích văn hóa cấp tỉnh đầu tiên được Ủy ban Nhân dân tỉnh Giang Tây công bố năm 1957. Chùa được bao quanh bởi hơn hai mươi bảo tháp do các nhà sư xây dựng qua các thời kỳ lịch sử. Trước chùa, còn có một số bia đá khắc chữ như “Ấn Phật” và “Cuộc trò chuyện tâm sự của Tô Đông Pha”, cũng như các bia khắc về đèo Triệu Châu và hồ Minh Nguyệt. Chùa cũng lưu giữ các hiện vật khai quật từ thời Nam Tống đến thời Minh, một cây bạch quả từ thời Đường, và một chiếc chum sắt lớn đúc thời Khang Hy nhà Thanh, khắc tên của hàng nghìn nhà sư.

Sáng ngày 17 tháng 4 năm 1993, sau một thời gian dài mưa, mặt trời chiếu sáng rực rỡ trên núi Vân Cư thuộc tỉnh Giang Tây, mùa xuân đang nở rộ.

Trên bệ rộng rãi trước Thiên Vương Điện của chùa Chân Như, không khí tràn ngập hương trầm Tây Tạng và âm thanh của nhạc Phật giáo. Một buổi lễ đã được tổ chức tại đây để chùa Chân Như tặng cây giống trà cho chùa Bạch Lâm ở Triệu Châu, tỉnh Hà Bắc. Sau khi dâng lễ Phật và rưới nước thánh, sư cô Nghi Thành đã tụng kinh Phật: “Mùa xuân đến, liễu đâm chồi nảy lộc, trà Triệu Châu nở rộ bên hồ Minh Nguyệt. Cây mơ Vân Tổ trên trời vô tư lự, là gốc rễ của giới luật, là cây thiền định, là hoa trí tuệ.” Sau đó, sư cô thay mặt chùa Chân Như trao tặng cây giống trà và cây bạch quả cho trụ trì Tĩnh Huy của chùa Bạch Lâm.

Hòa thượng Tĩnh Huy lập tức có bài phát biểu, tóm tắt mối liên hệ giữa trà Triệu Châu và mối quan hệ Phật pháp ngàn năm tuổi giữa hai ngôi chùa tổ. Ông bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các lãnh đạo của Hội Phật giáo tỉnh Giang Tây, chùa Chân Như và nhà trà Giang Tây, đồng thời khẳng định chắc chắn sẽ di dời các cây trà tại chùa tổ Triệu Châu để khôi phục lại giống trà Triệu Châu trứ danh và mở ra một chương mới cho mối quan hệ Phật pháp ngàn năm tuổi liên quan đến trà giữa hai ngôi chùa tổ.

Vào mùa thu vàng tháng 9 năm 1994, làn gió mát mang theo hương thơm của hoa mộc lan. Chùa Chân Như, một trung tâm Thiền tông nổi tiếng trên núi Vân Trại thuộc tỉnh Giang Tây, đã long trọng tổ chức Lễ Thụ giới Tam Giai để tiếp nối trí tuệ của Đức Phật và truyền bá dòng Phật giáo. Đây là lễ thụ giới đầu tiên được tổ chức theo “Quyết định tạm thời về việc thực hiện thụ giới tại các chùa Phật giáo người Hán trên toàn quốc” do Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc ban hành chính thức. Dưới sự lãnh đạo của Pháp gia Nghi Thành, Phó Chủ tịch Hiệp hội Phật giáo Trung Quốc kiêm trụ trì chùa Chân Như, chùa Chân Như đã nghiêm túc thực hiện tinh thần của Đại hội Phật giáo lần thứ sáu, nêu gương trong việc củng cố công tác xây dựng và truyền dạy giới luật theo Phật pháp.

Chùa Chân Như đã bổ nhiệm ba vị sư phụ cho lễ thụ giới, bảy chứng nhân, chủ lễ khai mạc, các sư phụ tá, các trưởng lão, các trưởng trì tụng, các trưởng trì y phục và các thị giả. Tất cả họ đều là những vị sư có đức hạnh cao, đã tham gia nhiều nghi lễ thụ giới và có kinh nghiệm phong phú trong việc tụng kinh, xứng đáng là người kế thừa dòng truyền thừa cho các tân tỳ kheo. Các vị chủ lễ thụ giới, Hòa thượng Yicheng, bậc thầy nghiệp duyên Hòa thượng Shengyi và giáo sư Hòa thượng Benzhi, đều là những vị trưởng lão đáng kính, có phẩm chất cao quý, đạo đức thanh tịnh và kiến thức uyên thâm về giáo lý và giới luật Phật giáo.

320 tân tỳ kheo (bao gồm 24 người từ Đài Loan) phần lớn đáp ứng các yêu cầu quy định trong quy chế thụ giới. Thời gian thụ giới diễn ra theo đúng lịch trình đã thỏa thuận và phù hợp với Phật pháp và giới luật từ đầu đến cuối, đạt được thành công trọn vẹn.



NGUỒN

🔗 phatgiao.org.vn

🔗 phatgiao.org.vn

🔗 wikipedia.org 🔗 wikipedia.org

🔗 baifodian.com

🔗 nanjing.gov.cn

🔗 jxyunjushan.com

🔗 sina.cn

GHI CHÚ


Địa danh liên quan