ĐẠI SĨ KHÔNG ĐỨNG DẬY


THÙY

📢 Ngài Đan Hà dạy chúng:

Đạo cao đức trọng, Thiên Tử có khi không có chủ thần. Tánh ngang ngạnh thì tám có còn.

Chủ hầu có lúc không làm bạn. Điều này đều là thông lệ cổ kim, vốn chẳng có gì lạ.

Có ai không giữ gìn kiểm tra lại bản diện này chăng?

CỬ - BẢN TẮC:

📢 Ngài Đầu Tử cử:

Phó Đại Sĩ thấy vua Lương Võ Đế không đứng dậy, công thần hỏi Đại Sĩ gặp vua vì không đứng dậy.

Đại Sĩ bảo: Đất pháp nếu động tức tất cả chẳng an.

📢 Ngài Đầu Tử niêm:

Rõ ràng an bang dẹp loạn nhờ bậc hiền tài. Lập pháp minh tông phải có bậc tác giả.

Song ý hợp chẳng điều lời phạm đầy trời. Lục dụng không toàn hóa phong giảm một nửa.

Nếu hạ cao xuống thấp thì cây khô được tươi tốt. Nếu tận sức đối chặn thì cảm thương khắp chốn.

BÌNH XƯỚNG

📢 Ngài Đầu Tử dẫn:

Đại Sĩ Thiện Huệ ở Song Lâm Vụ Châu, người Nghĩa Ô Bôn Châu. Ngày mồng Tám tháng Năm, năm Bính Tý tức là năm thứ ba niên hiệu Kiến Vũ đời Tề (496) sinh ở Song Lâm, con nhà họ Hấp.

Nam Sơn ghi năm 16 tuổi kết hôn với Lưu Diệu Quang. Sanh được hai người con, người con lớn tên là Phố Kiến, người con thứ hai tên Phố Thành.

Năm hai mươi bốn tuổi, Sư đến đình bắt cá với người trong làng. Sư thả giỏ cá xuống nước nguyện rằng: Đi thì thả ở thì bắt. Ai cũng nói sư ngu.

Gặp Đạt Ma Tăng Thiên Trúc, hiệu là Tùng Đầu Đà, bảo với Đại Sĩ rằng: Tôi với ông phát nguyện ở chỗ Phật Tỳ Bà Thi. Nay ở cùng trời đất Xuất vẫn còn y bát. Ngày nào sẽ trở lại?

Tùng Đầu Đà dẫn sư xuống nước soi bóng, thấy được bảo cái tròn sáng của Đại Sĩ.

Đại Sĩ cười bảo với Tùng Đầu Đà: Lò rèn còn nhiều sắt thô, của thầy thuốc còn nhiều bệnh nhân. Việc độ sanh cần yếu, tôi sao lo vui sướng ở thiên cung.

Đạt Ma Tùng chỉ dành Tung Sơn nói: Ở đây được.

Đại Sĩ sống tại đây bằng nghề cày bừa. Có người lấy lúa và rau quả, Đại Sĩ bảo họ lấy dây gió. Ban ngày làm việc ban đêm hành đạo.

Thấy ba đức Phật Thích Ca, Kim Túc, Định Quang phóng hào quang chiếu đến thân Đại Sĩ. Đại Sĩ nói ta được định thủ Lăng Nghiêm. Đem ruộng vườn nhà cửa thiết lập đại hội Vô Giá.

Niên hiệu Đại Thông năm thứ hai (530) rao bán vợ con. Thâu được năm vạn tiền để làm pháp hội.

Có pháp sư Huệ Tập nghe pháp tỏ ngộ nói rằng: Thầy ta là Di Lặc ứng thân Đại Sĩ. Đệ tử sợ mê hoặc nhân sinh nên không bàn luận nữa.

Ngày hai mươi tám tháng giêng năm thứ sáu (534), đệ tử Phó Vãng đem thư dâng cho vua Lương Cao Tổ (triều Lương Võ Đế).

Thư rằng: Đại Sĩ Thiện Huệ tương lai giải thoát tại rừng Song Lâm. Tâu với quốc vương rằng bậc cứu thế Bồ Tát, Đức Vua nên tu thọ trì ba điều thiện thượng trung hạ.

  • Điều thiện bậc thượng: Lấy đức bao dung rộng lớn làm gốc. Chẳng vướng mắc làm tông. Vô Tướng làm nhân. Niết Bàn làm quả.*
  • Điều thiện bậc trung: Lấy trí tuệ làm gốc, trí tuệ làm tông, trừ người phước báo an lạc.*
  • Điều thiện bậc hạ: Lấy việc bảo vệ nuôi dưỡng chúng sanh, đẹp được tán bạo, bỏ giết hại, khiến dân chúng đều giữ sáu ngày trai giới.

Nay nghe Hoàng Đế tôn sùng Phật pháp. Bần đạo muốn đến nghị luận mà chưa được mãn nguyện. Nay bảo đệ tử Phó Vãng đến dâng thư cho tướng Thái Lạc là Hà Xương.

Hà Xương nói: Quốc Sư Huệ Ước còn phải phải cung kính thưa. Ông là dân thường, chẳng phải là bậc trượng lão. Sao không khiêm tốn, đâu thể chấp ông vào.

Phó Vãng vẫn chỉ chưa trọng thành. Hà Xương đi đến chùa Đông Thái hỏi ý kiến pháp sư Hạo. Pháp sư Hạo khuyên mau trình lên vua.

Ngày hai mươi mốt tháng hai, dâng thư cho vua xem. Vua ban chiếu mời vào. Đại Sĩ vào cung. Khi vào cung, Đại Sĩ đội mũ đạo, mang hải nho, thân khoác ca sa gặp vua.

Vua hỏi: Theo Phật ư?

Đại Sĩ im lặng chỉ mũ.

Vua hỏi: Theo Đạo chăng?

Đại Sĩ im lặng chỉ giày.

Vua hỏi: Theo Nho sao?

Đại Sĩ vẫn im lặng chỉ ca sa.

Vương Kinh Công xin Phật Ấn làm bài tụng. Tụng rằng:

Mũ Đạo, giày Nho, ca sa Phật. Hoa hội ba nhà thành một gia. Quên mất con đường Xuất đã thiên. Song Lâm ngồi lặng đợi Long Hoa.

Sau này, Đại Sĩ giảng kinh tại vườn Hoa Lâm lầu Trùng Vân. Xe vua đến điện, mọi người đứng khép nép chắp tay, Đại Sĩ ngồi im không đứng dậy.

Hiến ty hỏi: Sao Ngài không đứng lên.

Đại Sĩ đáp: Đất pháp nếu động, tất cả chẳng an.

📢 Ngài Lâm Tuyền nói:

Bồ Tát thường thừa tin không nghi. Bậc trung hạ nghe thế thì sanh nghi.

Song chỗ niệm của Đầu Tử có thâu, có buông, có thả, có bắt, chớ chấp vào ngôn ngữ. Phải nhận rõ tông phong ngoài ngữ ngôn.

Xưa Thế Tông lúc mời Đại Thánh ở điện Thụy Tượng, hỏi quốc sư Thiện Viên Thông: Lễ là đúng hay không lễ là đúng.

Viên Thông tâu: Lễ thì kính trọng nhau, không lễ thì mỗi người tự xưng tôn.

Vua rất vui. Đại Sĩ chẳng đứng dậy chỉ biết luận sâu nhập lý. Viên Thông trả lời vua không bỏ điềm lập bày phương tiện. Đầu Tử biết Đầu Tử cũng còn ý này.

TỤNG CỔ

Lệnh vua Lương nước Ngụy kia sâu. Nửa đêm theo dòng qua sông nước. Tuy nhiên tắc đất yên không động. Tại sao Song Lâm một nửa sầu.

BÌNH XƯỚNG

📢 Ngài Lâm Tuyền nói:

Tổ thứ hai mươi bảy phó chúc cho Đại Sĩ Đạt Ma, kệ sấm rằng:

Lộ hành qua sông đến Lạc Dương. Một mình lặng lẽ thâm qua sông. Ngày qua thương tiếc cho Nhị Đế. Nơi đất Thiếu Lâm hiển pháp mầu.

Bài sấm này nói từ đầu đến cuối việc Ngài Đạt Ma từ tây sang. Buổi đầu, Ngài gặp vua Lương Võ Đế.

Vua lên Điện, mà chữ diễm kết hợp bộ hành với bộ thủy, nên nói đường qua sông. Vua không khế hội. Tổ Sư qua thực có đến Lạc Dương, cho nên nói “phùng dương” và “âm dương cảm vận”.

Tổ Sư không muốn người biết hành tung của mình, nên ban đêm đi bể lâu về hướng tây. Cho nên nói “ám độ giang”.

Tổ Sư từ Tây sang gặp hai vua Lương và Ngụy, nên nói “nhật hạ song tượng mã”.

9 năm quay mặt vào vách ở Thiếu Lâm. Cho nên nói “Nhị châu nôn quế” 久 vầu đồng âm, vì việc ngài Đạt Ma chẳng được thuận lợi.

So với Đại Sĩ thẳng thắn bất cận nhân tình cũng giống nhau vậy. Phật sự nhân tình không thể chu toàn. Lại biết chăng?

Gặp được nhau thì dễ. Sống với nhau mới khó.


NGUỒN

✨ …


GHI CHÚ


Công án liên quan