GIỚI THIỆU
Pháp sư Cầu Na Bạt Đà La là một cao tăng, một vị cao tăng dịch kinh vào thời Nam triều Lưu Tống (Thế kỷ thứ 5).
Ông là một người Ấn Độ có công lớn trong việc phiên dịch nhiều kinh Phật từ tiếng Phạn sang Hán ngữ
Thông tin chi tiết
-
Tên phiên âm: Cầu Na Bạt Đà La hay Cầu-na Bạt-đà-la
-
Tên tiếng Phạn: गुणभद्र, Gunabhadra;
-
Tên Trung giản thể: 求那跋陀罗; phồn thể: 求那跋陀羅; bính âm: Qiúnàbátuóluó; Wade–Giles: Ch’iu-na-pa-t’o-lo
-
Tên Hán Việt: Công Đức Hiền (功徳賢)
-
Thời kỳ: Sống vào khoảng năm (394 - 468)
-
Vai trò: Tăng sĩ dịch kinh
-
Công lao: Dịch nhiều kinh điển Phật giáo từ tiếng Phạn sang tiếng Hán
-
Thời kỳ hoạt động: Thời kỳ Nam triều Lưu Tống (劉宋) ở Trung Quốc
Theo tài liệu Xuất Tam tạng ký tập của Tăng Hựu, Sư sinh ở vùng Trung Ấn, sau đó qua Tích Lan, rồi qua Quảng Châu bằng đường biển.
Sư tiến hành dịch nhiều kinh luận Đại, Tiểu thừa nhất khi sư ở chùa Kì Hoàn tại Kiến Khang và Tân tự ở Hình Châu.
Trong số hơn 30 bản dịch của sư, tác phẩm quan trọng nhất là Tạp A-hàm kinh, Thắng Man kinh, và Nhập Lăng-già kinh 1 sang Hán ngữ – bản dịch thứ hai sau bản của Đàm Vô Sấm (Dharmakṣema, phiên nghĩa Hán Việt: Pháp Phong).
Các tác phẩm của sư gây ảnh hưởng nhiều đến tư tưởng Phật giáo Đông Á. Sư được vương triều ở Hồ Nam kính trọng.
Phân biệt với các nhân vật khác
Phật-đà-bạt-đà-la:
Một cao tăng khác cũng sống cùng thời, tên tiếng Phạn là Buddhabhadra, được biết đến với việc dịch bộ Kinh Hoa Nghiêm đầu tiên sang tiếng Hán.
Tu Bạt Đà La:
Một Bà-la-môn ngoại đạo cao tuổi, là đệ tử cuối cùng của Đức Phật, người đã được Đức Phật thế độ và nhập diệt.
GHI CHÚ
NGUỒN
Footnotes
-
⭐️ Xem thêm tại 🔗 KINH LĂNG GIÀ ↩