Vạn Pháp Quy Tâm Lục
-
Tác giả: Thiền Sư Tổ Nguyên Siêu Minh
-
Việt dịch: Tỳ Kheo Thích Đắc Pháp
LỜI GIỚI THIỆU
Tâm là thể của muôn pháp, muôn pháp là dụng của tâm. Pháp chẳng lìa tâm, ngay sóng là nước. Thể hay phát dụng, như nước động thành sóng. Thế nên biết, tất cả pháp là tâm vậy.
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm pháp là A tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú. Nhiễm tịnh tuy sai khác, nhưng tóm lại là bóng dáng của tâm. Nếu ngộ chơn tâm vốn không (rỗng), muôn pháp tự nhiên tiêu mất.
Nay thiền sư Tổ Nguyên ở núi Tiểu Dương, là cháu trong đạo của Đổn Thôn Phù Thạch Lão Nhơn, là đệ tử của Thượng Lam Thiên Phong Hòa Thượng ở Giang Tây. Ngài nghiên cứu thông suốt giáo điển, thâm đạt Thiền Tông, liễu đệ nhất nghĩa chứng tối thượng thừa, biện tài vô ngại, thật là cây phướn pháp vậy. Thiền sư vì lòng thương muốn dẫn dụ người hậu học, nên trao quyển “Qui Tâm Lục” để chỉ thẳng cái diệu nguyên. Trong lục này, thật tế là mỗi lời đều kiến tánh, mỗi câu đều minh tâm, có thể hay rửa sạch tà chấp, quét trừ dị kiến, chứng thẳng Bồ Đề, thoắt thành Phật đạo. Thật là thuyền từ nơi biển khổ, người dẫn đường nơi lối rẽ.
Tôi nhờ khánh hạnh đời trước mà gặp được sách này, liền dứt hết hồ nghi, thấu rõ tâm địa. Tôi tài năng quá vụng về, tri kiến lại cạn cợt, không đủ để phát minh lẽ thâm áo. Nên lược viết lời tựa để tỏ lòng biết ơn thầy.
-
Ngày rằm tháng riêng, năm Đinh Tỵ, đời vua Khang Hi.
-
Cổ Yến Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương Mộc
-
Kính đề
LỜI NÓI ĐẦU
Trước không kiếp, trước Phật Oai âm dương, Phật và chúng sanh đều không có tên gọi, nhưng mỗi mỗi đều có đủ một Viên Minh Cảnh.
Chúng sanh vô cớ, từ trong tịnh bạch sáng suốt, biến sanh thế giới chúng sanh nghiệp quả, sanh tử, tử sanh nối không dừng, mê chìm trong ba cõi, mò mẫm trong chín loài, từ ấy đến nay mê mờ không một ngày ngộ. Nếu chẳng chặt đứt dòng lưu lãng mà trở về nguồn, thì lúc nào mới có thể giải thoát?
Phải ngộ muôn pháp trở về nhất tâm, là chuyển thế trí để thành Phật trí. Có thể gọi là gom trăm dòng làm một tánh ướt, nhồi bụi bặm lại làm một khối, nấu chảy vòng xuyến làm một chất vàng. Biến tô lạc làm thành một vị. Pháp nhất tâm này lý sự đều tròn đủ. Mười phương chư phật, tất cả chúng sanh đều đồng tâm này, không thiếu mà cũng không thừa. Chư phật đã giác ngộ, chúng sanh chẳng nên biết, nên có tên phàm thánh mê ngộ.
Tôi chẳng chịu rũ tay đứng nhìn, nên chỉ ra một con đường chánh trở về tâm. Người xưa nói: “Trên đỉnh núi Diệu Cao từ xưa đến nay chẳng cho bàn bạc, đầu non thứ hai chư Tổ tóm lược dung hoà nói cho hiểu ”. Cho nên tôi mượn văn vấn đáp để nói mười điều danh tướng hầu chứng minh nhứt tâm, và cũng để bố thí cho tất cả hàm linh.
Mười điều danh tướng gồm có: một là cảnh tỉnh kẻ thế tục, để bỏ ác về thiện. Hai là cùng nhà Nho nghị luận để quét trừ sự bài báng khác lạ. Ba là cùng Đạo gia biện biệt chổn tà nguỵ, để chẳng hướng ngoài tìm cầu. Bốn là Đốn ngộ tu chứng, vượt thẳng cảnh Phật. Năm là nói sự sai biệt của Giáo và Thừa; nhỏ nhiệm chỉ bày nhất tâm. Sáu là “Duy tâm tịnh độ”, để nói Phật chẳng từ ngoài lại. Bảy là thiền phân năm tông mà lý không hai. Tám là mười loại ma sự làm loạn chánh định, để dự phòng và nuôi dưỡng đạo nghiệp. Chín là dẫn chứng lời kinh, hầu đoạn trừ nghi ngờ, và nương vào đó mà sanh lòng tin. Mười là khuyên nên in mà bố thí, hầu báo đáp ân Phật.
Tôi thừa hưởng căn lành rất ít, chợt thấy được một góc chỗ chí đạo, cho nên trình bày cái thấy hẹp hòi của tôi. Xin các bậc cao minh phủ chính cho, thật tôi chẳng phải ức kiến mà chỉ thuận theo Phật thừa. Nếu như có người học đời sau, xem quyển lục này có sai, tôi xin tha thiết sám hối những lỗi lầm về pháp của tôi. Nếu hợp với thành tâm, trên y lời dạy mà vâng làm, ngày kia sẽ đồng đến hội Long Hoa thọ ký thành Phật có phần.
-
Ngày Phật thành đạo, tháng 12, đời vua Khang Hi năm thứ 15, nhà Đại Thanh (T.L 1676)
-
Thiền Sư Tổ Nguyên Siêu Minh
Chương I - CẢNH TỈNH KẺ TỤC MÊ 🔗
❓ Tôi muốn thường ăn chay, có công đức chăng?
📣 Các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ, thể chất nó tuy khác với người, nhưng sự hiểu biết và sự đau khổ đâu khác chi người. Bởi đời trước nghĩ sai, nên đời này hình hài có khác. Nếu như một lòng tín thành dứt ăn thịt, giữ giới sát, thật là bậc “Đại đức quân tử”. Có thể bảo là người nhân từ, người thiện. Nếu quả ông ăn chay, giữ giới suốt đời không sờn lòng, chẳng những thêm nhiều phúc và thọ mà còn gieo được chánh nhơn giác ngộ. Khá thương cho người đời không trí huệ, tham đắm vị ngon mặc tình đồn chứa, ra tay sát hạt, tạo tác muôn ngàn. Chỉ ngon qua ba tấc lưỡi, một ngày kia cải đầu đổi mặt, lần lượt nuốt ăn. Lúc ấy đau khổ hối hận không người giúp cho.
❓ Người đời đều cho heo, dê, gà, ngỗng, các loài có vẩy, có mai, có lông mao, lông vũ… trời sanh ra các loài này để làm đồ ăn cho người. Nếu không giết để ăn, dùng chúng làm việc gì?
📣 Người đời ăn thịt đương nhiên, buông lung tâm ý mổ giết để thích khẩu, khoái bụng. Đâu chẳng biết, tất cả chúng sanh dưới nước, trong đất, trên không, trên bộ, chẳng quan là do nghiệp lực quả báo mà có thân xác khác nhau. Người đời tuy nhờ phước nhứt thời mà khinh thường sát hại quá nhiều rồi. Tha lực yếu kém làm sao chống chỏi nổi hận oán kia? Có ngày sẽ báo đền oan trái. Quả thật nếu heo, dê v.v. trời sanh ra làm đồ ăn cho người, còn ở thế gian những loài sài lang, hổ báo, muỗi mòng, chí rận… vô hạn ác thú hung cầm đều hay ăn người, đâu không phải trời sanh? Giả sử người nam kể nữ đều làm đồ ăn cho loài vật có nên không? Người đời không rõ tạo nghiệp sẽ có thường mạng lẫn nhau. Không biết cớ sao lại cho việc sát sanh là việc đáng nên làm, thật quá ngu muội.
❓ Tôi tuy nghèo mà trong sạch, chẳng bao giờ trộm cắp. Vậy thế nào?
📣 Không riêng gì lấy tài vật mới gọi trộm cắp, mà tham ô kẻ lương thiện, dùng tà thuật lừa đảo, xúi người kiện tụng, rủ rê dụ dỗ người cờ bạc, hại người tù tội, làm cho người nghiêng ngửa, hại người nơi hiểm nguy, làm cho hao tài tốn của, tráo đổi vật tốt của người, thiếu nợ chẳng trả, xâm lấn người ngu, chiếm đoạt kẻ yếu. Tất cả việc bất lương đều là trộm cướp cả. Nếu là người có trí huệ, thấy người giàu sang nên khởi lòng kính mến, mà hận mình đời trước không tu phước, đời này nghèo khổ phải cam chịu. Lại phát khởi tín tâm, tu phước lành, chứa công đức, những việc ác chớ làm, nên làm các việc lành. Tự nhiên không có phụ người chứa nhóm công đức lành vậy.
❓ Giữ tài sản một cách công bằng, nhưng chẳng bỏ hẳn lòng tham tích chứa, tùy sức mình mà kinh doanh. Vậy như thế nào?
📣 Giữ tài sản một cách công bằng thì nên. Tuy nhiên vật báu trên đời chứa lâu thành họa. Nếu vật báu có đến chớ nên chứa, nếu chứa chớ chứa lâu. Còn như tham cầu không chán, nhận ngang không thẹn, tuy một lúc được giàu có, nhưng chẳng khỏi tối lo sáng tính.
Kinh Phật nói: “Tài sản hiện tại của người đời là của chung của năm nhà. Năm nhà là nhà vua quan, nhà nước lửa, nhà trộm cướp, nhà giặc giã, con cháu tiêu phá. Người đời dại dột, đắng cay suốt cả một đời, tạo cho nhiều tiền của, mong được vĩnh viễn giàu có. Đâu biết đấy là phần của năm nhà một ngày kia sẽ tan nát. Như vậy giữ của một cách công bằng mà còn chẳng lâu thay, huống là giựt ngang hay lừa đảo mà có thề thường còn ư?”
❓ Tôi thường ít ham muốn về sắc dục, chỉ có một vợ, việc tà dâm tôi đoạn hẳn chẳng phạm. Vậy thế nào?
📣 Hai chữ sắc dục là căn bản của việc sanh tử. Trong các điều ác việc tà dâm tư tình gian dối là bậc nhất. Từ xưa tới nay nó là việc mất đạo tan đức, lại chuốc họa vào thân, không thể kể cho hết. Ngay nơi việc thích rượu chè, ham tiền của còn có thể chế, chỉ có một cửa ải sắc dục còn khốc liệt hơn gấp bội. Bởi chúng sanh gốc từ dâm dục mà tánh niệm phải tiếp nối sanh tử. Tập quán từ trước quá thuần thục, nếu không dùng trí huệ quán chiếu thì dục nghiệp làm sao rõ? Kẻ tại gia khó đoạn hẳn sắc dục, nhưng cần yếu là phải giữ cho chơn chánh: chẳng phải vợ nhà nhất định không thể làm hạnh tà. Có một bọn tục tử thấy vợ con người, dáng dễ coi liền khởi tà tâm, rồi nghĩ mộ tham cầu. Như vậy thì lý trời đã mê, lòng người đã mất.
Kinh Phật nói: “Gian dâm vợ người bị quả báo tuyệt tự. Gian dâm con gái người bị quả báo con cháu dâm dật, phóng túng”. Ông có thể đại khái nhìn những nhà người hiểu dâm hạnh xấu, bởi tiếp nối dòng tệ hại nên lần lần tiếng nhơ lan đến mọi người. Cổ nhơn nói: “Ta chẳng dâm vợ người, người chẳng dâm vợ ta”. Lại có một hạng chúng sanh mang nghiệp si, thấy người đàn bà khác vốn không phải vợ mình, cho người ấy đẹp, rồi bày điều gian dâm lừa đảo, trở lại bỏ bê vợ nhà chẳng đoái hoài. Hoặc thích gần gũi bỡn cợt trẻ ngoan. Hoặc tư thông với vợ người làm công, và khiến kẻ dưới lừa đảo người trên…muôn ngàn dâm nghiệp kể ra không xiết.
Lại có kẻ đọc sách tài tử, cũng cho học là người thông minh. Sách ấy miêu tả chuyện tư tình của phụ nữ nơi khuê môn, biên vào ca dao, làm thành sách vở, làm mê hoặc người thật thà, dẫn học vào tà niệm. Tội ác của kẻ ấy thật như núi cao, không thế nào cầu đảo mà hết được. Nếu là người có trí huệ phải nên tự hổ thẹn và tự ăn năn, mà đoạn tuyệt ngay nết tà dâm, thì cõi người cõi trời đâu đó có phần. Kẻ ngu ngày đắng miệng mà khuyên các ông: “Chỉ nhơn nghiệp dâm mà tội ác tạo ra nhiều lắm!”
❓ Dâm dục tội ác như vậy, khẩu nghiệp như thế nào?
📣 Trong mười nghiệp ác, chỉ có miệng là đã chiếm hết bốn rồi. Nói dối, nói thêu dệt, nói hai lưỡi, nói ác là giết người không máu. Kẻ ấy còn hơn người làm ác nhiều. Làm bại hoạt việc lành của người, nói chỗ yếu của người. Bàn biệc quấy của người, luận việc lỗi của người, lừa đảo tiền của của người, cho đến việc bại hoại đạo đức, chôn vùi người mà cũng chôn vùi mình, đều do không ngăn được cái bệnh lắm mồm của mình. Cho nên tự chuốc họa rất nhiều.
Kinh nói: “Phật bảo ngài A-nan rằng người đời tai họa từ nơi miệng mà lưu xuất phải nên giữ gìn cái miệng còn hơn giữ lửa. Lửa dữ thiêu đốt tài sản ở thế gian, lửa ác khẩu thiêu đốt tài sản bảy báu của mình”. Tất cả chúng sanh tai họa từ nơi miệng mình mà ra, nó là chiếc búa chém mình, là cái họa tai tiêu diệt mình. Nay có người muốn nuôi dưỡng đức hạnh, phải ẩn ác dương thiện, phát ngôn nên nói lời chơn thật, đàm luận không nên nói bậy, có hỏi có đáp, lời nói giản dị, khí sắc ôn hòa, thì chư Phật chư thiên gia hộ và cũng được người thương yêu và kính trọng.
❓ Tánh tôi thích uống rượu, như vậy thế nào?
📣 Tâm tánh mê mờ, chí khí bị chôn vùi, nhà cửa tan nát, lại còn mất mạng, phần nhiều do uống rượu mà ra, và chuốc họa tai không ít. Người đời mê rượu không chán, cho đến hình hài bị hủy thương, điên đảo cả lễ pháp, nằm lăn nơi phố chợ, la ó om sòm, phạm lỗi người trên mất hết danh dự, loạn dâm mất đức, muôn ngàn việc lỗi lầm nghịch ngợm là do tham uống rượu. Người xưa nói: “Ngăn ông chớ uống rượu, nó là thuốc làm điên loạn chớ chẳng phải vị ngon. Nó hay khiến người tánh tình thuần hậu thành kẻ hung dữ dối láo”. Trong luật tứ phần nói: “Uống rượu có ba mươi sáu lỗi. Chẳng những người đời uống rượu phạm lỗi, cho đến la hán tham uống rượu cũng mất hết thần thông”. Chúng sanh mê muội, kẻ phàm phu sơ học phải giữ gìn và kiêng cữ uống rượu.
❓ Xin nói ba mươi sáu lỗi gồm những gì?
📣 Uống rượu có ba mươi sáu lỗi là: bất hiếu với cha mẹ, khinh mạn thầy dạy, chẳng kính trọng Tam bảo, bài báng hàng Sa-môn, bươi móc tội người, thường nói lời vọng, vu người làm ác, đem lời thâm thọc hai đầu, nói lời hung ác hại người, là gốc của bịnh hoạn, là rễ của đấu tranh, tiếng ác đồn khắp, người hiền đều chán, bài xích thánh hiền, khinh lờn trời đất, hư mất sự nghiệp, phá nát gia tài, thường không biết hổ thẹn, chẳng biết sỉ nhục, vô cớ đánh người ở, giết hại chúng sanh, gian dâm vợ người, trộm tài vật của người, lơ là với người hiền, gần gũi bạn ác, thường ôm lòng sân hận, ngày đêm lo rầu. Lấy đông đưa tây, giữ nam mắc bắc, nằm đường té rãnh, rơi xe té ngựa, gặp sông rơi xuống nước, cầm đèn bị cháy, tháng nắng nóng chết, ngày lạnh rét chết. Người uống rượu có những lỗi như vậy. Người quân tử nuôi đức, phải tự răn mình đừng uống rượu.
❓ Tôi có chỗ tốt là khi bị người ta điểm nhục mà không giận dữ, nếu có chút phiền, nhưng khi biết rồi cũng hết. Vậy thế nào?
📣 Giận dữ là gốc của muôn điều chướng ngại, nhẫn nhục là đứng đầu của trăm phước. Người đời nói nhẫn nhưng mà chữ nhẫn rất khó, không phải là người trí huệ quyết không thể nhẫn được. Trừ ngoài Phật Tổ được như như chẳng động. Kẻ hào kiệt, người sơ học phần nhiều do không nhẫn mà bị thất bại, và bị hãm vào chỗ bất như ý. Kinh Phật nói: “Nhẫn nhục là bậc nhất”. Tục ngữ có câu: “Ăn được ba đấu tương chua, giấm đặc mới làm được tể tướng”. Kẻ phàm phu ở đời còn như vậy, huống là người học đạo không rộng lòng nhẫn nhục ư?
❓ Người đời nhiều lòng tham, gom góp tài sản cho thật nhiều. Tự bảo là để lại cho con cháu sau này được giàu có, được hay chăng?
📣 Kẻ ngu si ở thế gian ý cậy quyền thế, mê tâm chôn đức, có trăm cách khéo léo để lấy, dù được giàu có bất ngờ, nhưng có bao giờ được lâu dài. Nếu là người trí huệ nên phải chứa công nuôi đức, tuỳ khả năng mình mà kinh doanh, theo đúng mệnh trời, tự nhiên chư thánh phò hộ, âm thầm tăng trưởng phước lộc. Người đời chỉ biết vì con cháu lo làm giàu, chớ chẳng biết vì con cháu làm lành tạo phúc. Thế nào gọi là phúc? Kính trọng Tam bảo, chứa nhóm âm đức, cẩn trọng qui tắc của gia đình, dạy người cố gắng làm việc và học hành, đấy là tạo phúc.
Thế nào là cầu làm giàu? Không thành tín mê mờ thiên lý, dùng tâm máy móc, gom góp tiền của không hợp lý, đấy là cầu giàu có. Kẻ cầu giàu chẳng thạnh người tạo phúc sẽ hiển vinh. Há chẳng thấy kẻ giàu to ở đời, con cháu hư hèn, cờ bạc phóng túng, một ngày kia sẽ phá cửa nhà, cho đến mất thân mạng. Chuyện này thường có xảy ra, sao không lấy đó làm gương? Tục ngữ nói: “Được của không chánh đáng, bỏ được là tốt”. Người trí xem biệc này chưa khỏi lạnh lòng!
❓ Như đã mở bày, muốn làm người tốt phải xem tất cả như không, và thường thường kiểm điểm, phải vậy chăng?
📣 Muốn làm người tốt phải tự soi xét: suốt một ngày từ sáng đến chiều phải soi tâm mình và tự xét lý kia. Khi khởi tâm động niệm có cùng tâm trời hợp không? Hành động hàng ngày có cùng với người hợp không? Hằng thường tỉnh táo, không rơi vào tư riêng lâu ngày tâm được chánh, nhơn dục tự nhiên hết. Nếu là người buông lung tâm ý, chẳng sợ trời phạt, chẳng sợ báo ứng, phi lễ mà hành động, mà tạo tá, lâu ngày chầy tháng, tích chứa nghiệp ác quá nặng, một mai phúc hết, các nghiệp đến bên thân, hiện đời gặp tai họa, khi chết đoạ ba đường ác. Kinh Phật nói: “Nghiệp đã tạo, giả sử trải qua trăm ngàn kiếp cũng không mất, khi nhơn duyên hội ngộ, mình phải trở lại chịu quả báo”. Thế nên biết, nhơn quả chẳng sai, người đời sau hãy tin chắc thật.
❓ Việc nhơn quả có nhiều người không tin. Vậy thế nào?
📣 Việc nhơn quả báo ứng chẳng sai chẳng lầm, giống như bóng theo hình, một mảy may không lộn lạo. Các bậc tiên thánh đã nói việc này rất rành rõ. Người sau ngu mê chẳng tin, phải nên tế nhị mà xét: Người đời có kẻ giàu sang, người bần tiện, có kẻ chết yểu, người trường thọ, có kẻ được vinh dự sủng ái, có người gian nan nhục nhã, có người khổn khổ, kẻ an nhàn, có người trẻ mà được đăng khoa, có người suốt đời thi chẳng đậu, có người rất giàu có mà không con, kẻ nghèo xơ xác mà nhiều người kế hậu, có người ấu niên, trung niên, lão niên khổ vui chẳng đồng, có người nghèo hay giàu sang suốt một đời, còn muôn ngàn việc sai khác nhau chẳng nhất định, ấy tất cả đều do nghiệp cảm nên. Người xưa nói: “Mùa xuân gieo một hạt thóc, mùa thu được muôn vạn hạt. Người đời làm thịện ác quả báo cũng như vậy” (xuân chủng nhất lạp túc, thu thu vận khoả tử, nhơn sanh vi thiện ác, quả báo hoàn như thể). Thế nên biết, sự vui buồn trong ba cõi, sự thăng trầm trong sáu nẻo, đều do tự mình tạo và tự mình chịu lấy, không phải từ bên ngoài đem đến cho mình.
❓ Tôi thấy người trung chánh lương thiện lại nghèo không một gánh lúc. Lại có bọn điêu ngoa hung ác mà ruộng đất cò bay thẳng cánh. Như vậy nhơn qủa há chẳng lầm ư?
📣 Tạo thiện ác chẳng đồng nhau, nên quả báo cũng chẳng nhất định: Có lúc báo ngay nơi thân mình, có khi báo nơi thân con cháu, có khi báo đời này, có lúc báo đời sau. Như có người ăn cơm hẩm, kẻ ăn cao lương. Người mặc áo gấm, kẻ áo lông. Lại có kẻ lầu son gác tía, lên xe xuống ngựa. Tất cả đều do đời trước tự làm điều thiện hay điều ác, mà nay chịu quả báo khổ hay vui, một mảy may chẳng sai chạy. Chỉ thấy kẻ hung ác mà được giàu sang, đâu biết được người ấy đời trước đã tu phước? Hoặc thấy người rất từ thiện mà nghèo khó lại mạng yểu, ấy là do đời quá khứ tạo nghiệp ác mà ra. Trang Tử nói: “Tên đạo chích theo đoàn quân chín ngàn người, hoành hành thiên hạ, xâm bạo các nước chư hầu mà tên ấy vẫn trường thọ”. Trong Luận ngữ sớ nói: “Hạng Thác bảy mươi tuổi làm thầy Đức Khổng Tử mà chết yểu”. Cho nên có người trong sạch chân chánh mà thân bần cùng. Hoặc có người tham ô mà giàu có. Chớ chấp hiện đời này có sai khác mà bài báng nhơn đời trước thì sai lầm vậy.
❓ Sự báo ứng của thiện ác, lý kia không sai. Có một bọn ngu si chẳng tin nhân quả, trở lại nói: “Lương tâm chẳng thể làm ra gạo. Nếu lương tâm hay vào nồi thành cơm thì cũng có thể nên làm”.
📣 Khá tức cười, thật là quá ngu si điên đảo. Ông, nếu lương tâm từ sáng đến tới không dối, thì phù hợp với lòng trời, lúc ấy thần cũng vui vẻ, người cũng hân hoan. Niềm hòa khí được cảm triệu, thì tự nhiên tươi vui. Kinh thi nói: “Niềm vui chỉ đến với người quân tử, và phước lộc sẽ đến với họ”. Nếu do chôn vùi đức hạnh mà được tiền của, bỏ tấm lòng mà được giàu có, thì mới trở lại bài báng lương tâm vô dụng, không thể vào nồi thành cơm. Đâu biết hạng người này đã mê mồ lý trời, trong bóng tối thần giận qủi hờn, giảm phúc tổn thọ, nghèo thiếu nạn tai, cho đến con cháu hư hèn, việc lạ đâu chẳng có. Sách Văn Xương nói: “Người tu thân sửa hạnh, trời nhất định giáng cho trăm điều lành. Trái lại kẻ phản đạo bại đức, thần cũng đoạt năm phước” [^1]. Thế nên, phước thiện hay hoạ tai, lý nó tất nhiên nhất định như vậy. Nếu chịu cải ác làm lành, chẳng khinh lờn, tự nhiên Phật trời ngầm phò hộ, phước thọ được tăng trưởng.
❓ Người có lỗi biết ăn năn có thể được chăng?
📣 Đã là người ai chẳng có lỗi lầm, biết lỗi lầm mà ăn năn chừa cải, thì điều lành nào chẳng lớn? Sự lỗi lầm ác hại chẳng phải có một. Nên nơi thân miệng ý phải luôn tỉnh táo, nhất định giờ phút nào cũng phải soi xét xem hành động mình có thích đáng hay không. Nếu là thiện nên làm, còn ác thì mau cải đổi. Sự đổi ác theo thiện như con bệnh ra mồ hôi, tự nhiên sẽ được may mắn, vui vẻ, chư thánh sẽ phò hộ cho.
❓ Giả sử chiếu xét chẳng đến, một lúc sanh tâm động niệm, chưa biết phải háng phục tâm ấy như thế nào?
📣 Người xưa trị tâm rất khít khao, cho nên gặt hái được nhiều kết quả to lớn. Tất cả những tâm thiện ác của con người đều do NIỆM. Khi niệm dấy động nên mau mau tỉnh giác. Tỉnh giác nó liền thành không. Thu nhiếp như vậy lâu ngày chầy tháng tự nhiên tâm chánh. Kinh Thư nói: “Buông lung niệm là người điên, chế phục được niệm là bậc thánh”. Lời nói này rất chi lý và nên theo đó mà hành.
❓ Người tại gia năm dục [^2] cột trói, không thể thoát liền được, chưa biết có phương tiện gì để tu lần hay không?
📣 Người tại gia tu hành việc ấy rất khó, phải dũng mãnh kiên chí và thường lâu mới được. Nên trong lúc động tịnh hàng ngày, trong lúc rảnh rang hay lúc bận rộn, chỉ riêng đề khởi một câu A Di Đà Phật, rồi hồi quang phản chiếu, chỉ giữ một niệm. Giả như có nhiều vòng lửa xoay trên đầu nhất định cũng không bỏ một niệm này, mặc tình cho tám gió [^3] đến xung kích ta, chẳng cho mất một niệm này, lâu ngày chầy tháng một niệm được thuần chơn. Trở lại đem một niệm này phá nát ra, lúc ấy tự tánh Di Đà mới hiện. Giả sử hành như vậy, suốt một đời chẳng ngộ, khi báo tận mạng chung (chết), tự giữ một niệm, thẳng đến đường chánh. Trở lại làm người một nghe ngàn ngộ, thấy tánh thành Phật đã có phần. Đây là yếu chỉ của biệc trở về tâm (qui tâm). Trái lại chờ hướng bên ngoài mà dong ruổi tìm cầu. Tự mình phải lời nói và hành động không trái, thì mới gọi là chơn chánh thọ dụng.
CHƯƠNG II - PHẬT NHO LUẬN LÝ 🔗
CHƯƠNG III - THÍCH, ĐẠO BIỆN LUẬN LẼ THIỆT HƠN 🔗
❓ Giáo lý của tôi vào giáo lý của Đạo Phật đại khái chẳng đồng nhau.
Sư hỏi lại: Chẳng đồng nhau chỗ nào?
Đạo sĩ đáp: Đạo Phật tu tánh chẳng tu mạng. Đạo tôi dạy tánh mạng song tu.
Sư hỏi: Thế nào là tu tánh, thế nào là tu mạng?
Đạo sĩ đáp: Tu tánh là “ly cung tập định”, tu mạng là “thuỷ phủ cầu huyền”.
Sư hỏi: Thế nào là ly cung tập định, thế nào là thuỷ phủ cầu huyền?
Đạo sĩ đáp: Ly cung tập định là ngưng tâm chẳng động để giữ thần. Thuỷ phủ cầu huyền là luyện tinh hoá khí để được hình thể kiên cố (cố hình). Hình và thần đều diệu thì cùng với Đạo hợp lẽ chơn.
Sư nói: Đạo Phật chỉ tu một bên, chẳng luyện tinh hoá khí để được hình thể kiên cố hầu giữ mạng. Ông lại chẳng biết “Ly cung tập định” và “tâm tức tương y” (tâm và hơi thở nương nhau) là pháp của hàng Nhị thừa. Luyện tinh nơi thuỷ phủ hoá khí đi ngược trở lên, thông với huyền quan được hình thể kiên cố. Đó là thuật để kéo dài tuổi thọ.
Phật giáo thượng thừa khi đốn ngộ tâm tánh, thấy sơn hà đại địa, vạn vật, thân tâm đều là hình bóng hư huyễn ở trong Tánh, nên không cớ gì nương huyễn mà tu bóng. Như vậy há chẳng lầm to ư? Người xưa nói: “Bậc tiên còn trước nơi hình thần, nên chẳng thể xả bỏ”. Hơn nữa hình thần là những vọng tưởng từ chơn tánh hiển hiện ra, chẳng phải chơn thật. Khá cười cho Đạo giáo, những bậc cao nhơn xua nay chẳng ngộ được chánh giác lầm hiểu cho là chí lý, mê vọng dùng “tâm tức tương y” cho là tu Tánh. Luyện tinh hoá khí để được hình thể kiên cố cho là tu Mạng. Tất cả là để được hình thân đều diệu. Như vậy cùng với bản tánh quá xa vời!
Đạo sĩ nói: Bọn môn đồ của âm ma, không thể song tu mà trở lại vọng báng Đạo tôi là Nhị thừa. Ông phải biện cho rõ tâm tôi mới phục.
Sư nói: Người học đạo Tiên khởi đầu từ chúng sanh, tuy biết sanh tử là việc quá khổ, nhưng chẳng ngộ được đạo lý Nhất thừa tối thượng. Lầm chấp bề trong của sắc thân, vọng lấy tâm thịt bên trong, cho là có một thần tánh gọi là chơn hông, tên khác là xá nữ. Ngưng thần chẳng động làm như vậy là “ly cung tập định”. Tinh khí trong thân gọi là chơn công, tên khác là anh nhi. Luyện tinh hoá khí, làm như vậy gọi là “thuỷ phủ cầu huyền”. Cái ý là chơn thổ, lại gọi là hoàng bà. Như phương pháp tập định, cần phải nghiêng về tịnh toạ: dùng ý điều tức (hơi thở), nhiếp thân chẳng cho động, làm như vậy gọi là Phục hổ. Ngưng thần hợp với khí, tâm định chẳng động, làm như vậy gọi là Hàng long. Thân tâm ý hợp là trở về thổ phủ, lặng yên chẳng động gọi là tu tánh.
Trương Tử Dương nói: “Chơn thổ giữ chơn công, chơn công chế chơn hống. Công Hống qui thổ phủ, thân tâm lặng yên chẳng động”. Đạo gia nhận đấy là “tâm tức tương y” dối bảo Đaọ Phật là thiên tu (tu một bên). Há chẳng hiểu lầm về chi lý tối thượng ư?
Đâu không biết rằng mỗi người vốn có đủ một tâm tánh rộng lớn, bao trùm cả thái hư, chẳng có chẳng không, cũng chẳng bên trong bên ngoài. Vốn tự bất động chẳng cần tập định. Vô cớ lại đem cái huyễn thức trong thân, rồi dùng huyễn ngưng huyễn gọi là tu tánh. Thật là kẻ nhận giặc làm con, mà cho là “chơn tánh bổn cụ”. Tóm lại, như vậy nếu tu thành công, chẳng lìa Dục giới, một mai định lực hết trở lại đoạ xuống hạ giới!
❓ ❓ “Ly cung tập định”. Sư đã nói, xin bàn luôn về “thuỷ phủ cầu huyền”?
📣 📣 Thủy phủ cầu huyền: Tiết ngữ tinh khí, trong suốt 12 giờ, phản chiếu nơi rún trong một tấc 3 phân, gọi là khí hải. Chỉ giữ mà chẳng cho dính mắc, chỉ chiếu mà chẳng trụ. Thân tâm định lâu, cung Khảm và cung Ly đều giao nhau, tâm hỏa giáng xuống, thận thủy bay lên, tinh đầy khí tròn, lúc ấy trong nội thân như lửa, cuối giờ Hợi đầu giờ Tý khí động nơi vĩ lư, bèn dùng ý hút đưa vào trong giáp tích, thẳng qua ngọc chẩm, trên đến thiên cốc, trở lại hóa thành kim dịch, mùi vị thơm ngọt, nuốt xuống trùng lâu, rơi nơi huỳnh đình, gọi là “Càn khôn giao cấu” xong. Một điểm rơi vào huỳnh đình, từ đây điều hòa thông suốt, tứ chi khoan khoái, ttất cả hơi thở đều chảy khắp, tươi nhuận tạng phủ, mặt trở lại tươi trẻ như bé thơ, tuổi thọ dài lâu. Cổ Tiên xưa có kệ rằng:
Pháp thủy năng triền hữu bi quan
Tiêu diêu nhật dạ khiển luân hoàn
Vu trung ủng trệ sanh chư bệnh
Tài quyết thông lưu tiện trú nhan.
DỊCH:
Tự cửa màu nước pháp thường dâng
Suốt ngày nhàn nhã khiến xoay vần
Bên trong ngăn trệ muôn ngàn bệnh
Vừa khơi chảy suốt mặt mày hàn.
Ngô Tiên lại nói:
Khi qui ngươn hải thọ vô cùng
Thử thuật vi kim dịch luyện hình.
DỊCH:
Khi về ngươn hải thọ vô cùng,
Thuật này là kim dịch luyện hình.
Tập định là “ngọc phù bảo thần”, hình và thần đều diệu thì với Đạo hợp lý chơn. Một mai công quả đầy đủ, tùy phước sâu cạn, nếu người hành rộng rãi thì tạm ở nơi Bồng đảo, hoặc trụ nơi động thiên, ở đó ba bốn trăm năm, hay hai ba ngàn năm, rồi sanh trở lại nhơn gian, tích chứa công hạnh, bồi dưỡng phước huệ, một ngày nào đó công quả sâu dày, Thượng đế đến gọi, tùy hàng sắp chỗ đứng, Tiên quan chẳng đồng. Nếu y đây mà tu thì đồng như trong Đạo Phật, đại khái như ở Trịnh châu vọng cầu cửa Tào, xa càng xa vậy.
❓ Tâm tức tương y, Ngài nói đấy là pháp của Nhị thừa. Vậy do đâu mà ngài Đạt Ma từ Ấn sang lưu truyền kinh Thai Tức?
📣 Tổ sư từ Ấn sang truyền Tâm ấn, há lại đem “tâm tức tương y” làm nhất thừa tối thượng của Phật ư? Ngài Đạt Ma khi chưa đến Đông độ, phương này đều tu tập Chỉ Quán, nhọc gì từ xa đến lại truyền Thai tập? Ấy là trên đầu thêm đầu, hay có thể bảo là trên mỏ thêm cái mỏ nữa.
Bởi ở Trung Hoa này người sơ cơ học Đạo chẳng ngộ tâm tánh, chỉ tập tu chỉ quán, Tứ thiền bát định, chẳng chứng Phật Tâm. Cho nên sơ Tổ của ta vượt biển mà đến đây “chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”. Chẳng biết người nào ngụy tạo Thai tức giả danh giáo ngoại biệt truyền của Đạt Ma, mê hoặc người sau, làm cho vàng thau không phân biện.
❓ Pháp thai tức là ngụy, chẳng phải là pháp thượng thừa của Phật. Ngài nghị luận như vậy có gì làm bằng cứ?
📣 Phương pháp thai tức, giống như trong thai mẹ, mờ mờ mịt mịt, thân tâm lặng yên. Định lâu được thành tựu thì thần cùng khí giao kết lại, luyện thành một hình huyễn, thức thần rong chơi bên ngoài, chớp mắt đi ngàn dặm, ngao du tự tại. Như vậy thì cùng với Đạo nhất thừa của Phật rõ không can hệ.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Những người tu học, hiện tại tuy được chín từng lớp thiền định, nhưng không được lậu tận thành A La Hán. Tất cả đều do những chấp vọng tưởng sanh tử này, lầm cho là chơn thật”. Đâu chẳng biết trong thân huyễn vốn không có tánh mạng. Chơn tánh mạng của ta không ở trong ngoài, mà bao trùm thái hư, vốn tự nó hiện thành cũng chẳng thêm tu chứng. Tánh thụ của kẻ lậu học ngộ được tánh mạng này, nên hay hiện vô lượng diệu thân, hay độ vô lượng chúng sanh, hay thành vô lượng trang nghiêm, hay làm vô lượng Phật sự. Vô cớ lại đem pháp Thai tức, lầm nhận là tôn chỉ giáo ngoại biệt truyền. Thật đáng buồn thay! Tự mắt mình chẳng sáng còn mê hoặc kẻ sơ học thiếu hiểu biết, rồi đi lấy nhỏ làm lớn, tội kia chẳng nhỏ.
Đạo sĩ hỏi: (Ngài nói) bên torgn thân tâm vốn không có tánh mạng, nhưng hiện nay thần ở trong thân, khi hô hấp tới lui, đây chẳng phải là chơn tánh chơn mạng của ta? Nay đem cái thần khí này cộng với tướng ngưng hợp, rồi cho về khí huyệt kết thành đại đơn, tự nhiên thân nhẹ thần diệu, liền có thể “du hành bát cực”, trên trời cõi người đều được tự tại lớn. Đây gọi là tánh mạng song tu, là Đại Đạo chí nhơn của thần tiên.
Sư đáp: Thần trong thân là vọng, khí hô hấp là huyễn. Nếu cho huyễn vọng là chơn tánh mạng, gom lại tu tập thành công, thân hình mầu nhẹ, đi rong trên hư không, chớp mắt xa ngàn dặm, sống lâu mấy ngàn vạn năm, ở sâu nơi động trời đất phước cho là thành thánh. Nhưng mà chẳng ngộ chánh giác, quả báo hết trở lại tan vào các cõi.
❓ Sự tu TÁNH của Phật giáo là thiên về âm mà không dương. Cho dù gom được tu thành kiến tánh cũng lại là sự trong sạch của ma quỷ.
📣 Âm dương quỷ thần là việc không kiếp trở về sau, còn diệu minh chơn tánh là lý của không kiếp trở về trước. Nếu đem lý trước không kiếp mà nhận là việc sau không kiếp, người này không những chẳng rõ về âm dương mà lại còn mê muội điên đảo nhiều vậy.
Đạo sĩ nói: Phật giáo thiên tu là âm, đạo tôi song tu là dương trong, Đơn Kinh, Tử Thơ đều nói chớ chẳng phải tôi tự bày điều không căn cứ.
Sư đáp: Chủ trương song tu của Đạo gia là ngộ nhận lẽ chơn thật. Thức thần ở trong thân là âm trong dương. Tinh khí ở trong thân là dương trong âm. Gom khí hợp thần, thần ngưng khí trụ gọi là “Thủ khảm điền ly” (giữ quẻ khảm, lấp quẻ ly), điểm hoá âm trong dương thành thể khô cứng, luyện thành kim đơn, mười tháng kết thai, chín năm bảo dưỡng xuất ra đảnh môn ở trên gọi là Dương thần. Tan ra thì thành gió, hợp lại thì thành hình, ngao du thiên hạ, tiêu dao tự tại. Công phu nhiều thì bay lên Thiên cung, công phu ít thì ẩn cư nơi Bồng đảo. Nếu nương vào đây cho là phải mà chẳng cần tu Tam muội, đến khi quả báo cõi Tiên hết trở lại đoạ làm quỉ cõi dưới. Người xưa nói:
Học đạo chi nhơn bất thức chơn, Chỉ vì tùng tiền nhận thức thần. Vô lượng kiếp lại sanh tử bản, Si nhơn hoán tác bổn lai nhơn.
DỊCH:
Người học đạo chẳng hiểu lẽ chơn, Bởi do từ trước nhận thức thần. Vô lượng kiếp nay gốc sanh tử, Kẻ si nhận đó bản lai nhơn.
Phật giáo thượng thừa, kiến tánh vô vi, trạm như thái hư, thể đống pháp giới, chẳng phải âm dương, chẳng ra vào, dẫn nó không trước, dắt nó không sau, đưa nó không lên, đè nó không xuống từ xưa nó thường sáng, đến nay nó chẳng mê. Tuy không hình tướng mà hay khởi báo thân, hoá thân. Không những chỉ hiện một thân mà có thể hiện trăm ngàn ức thân. Độ thoát chúng sanh như hằng sa, thành tựu muôn đức trang nghiêm. Kẻ căn cơ thiển bạc ôm khối nghi ngờ nào thể tín thọ?
❓ Đạo tôi có nói rằng tu tánh chẳng tu mạng, muôn kiếp âm linh khó nhập thánh.
Sư đáp: Lý của mạng học, đại khái có sai khác, nếu chẳng tham cứu cho sâu, sợ e làm lầm người hậu học. Sơn Tăng chẳng tiếc lời cùng ông bàn luận chỗ vi tể của nó:
Hai chữ tu mạng có Lý mạng và Khí mạng. Lý mạng có hai nghĩa, khí mạng cũng có hai loại. Tôi trước nói rõ về khí mạng, sau trở lại bàn về lý mạng.
Khí mạng loại một là “Cổ bổn khai quan” (giữa chặt gốc mở cửa quan), thường nghiêng về tịnh toạ, phản chiếu lại huyệt khí hải, giữ cho chơn ý chẳng tán, trong lặng chẳng chấp trước, lâu ngày chầy tháng, tinh đầy khí tròn, nội thân như lửa, mau mau kích động, điều hòa cho quân bình hơi thở nơi mũi, mau đề lên cốc đạo, nên dùng ý dẫn nó, gọi là hái thuốc (thái dược). Tiên nói: “Khi can quí sanh phải mau hái, mong xa thường chẳng nổi” (Quí sanh tu cấp thái, vọng viễn bất kham thường). Chỉ khoảng một thoáng, tinh khí xoay trở lên, từ trong vĩ lư có tiếng lụp bụp, ở giữa qua giáp cốt, thẳng thấu ngọc chẩm, ra sức vận lên xông đến đảnh môn, khí kia cuộn xuống, dùng mũi dẫn nó, tự nhiên biến thành cam lộ, mùi vị thơm ngọt, nuốt xuống trùng lâu, rơi vào huỳnh phòng. Đấy gọi là “trữu hậu phi kim tinh”, lại còn gọi là “bế nhâm khai đốc mạch” (đóng mạch nhâm khai mạch đốc). Từ đây khí nơi đơn điền ấm, thần khí chan hoà, da thịt tươi nhuận, tứ chi sảng khoái, mặt tươi trở lại như trẻ thơ, tuổi thọ dài lâu.
Lấy đây mà xét, thuật kéo dài sanh mạng này dù cho sống lâu ngàn tuổi, rốt lại rồi cũng tan nát. Chẳng ngộ được tâm tánh trở lại đoạ vào các cõi. Nếu bảo thuật này có thể thành Thánh là mê hoặc người sau, thật là lời dối gạt to tát.
Khí mạng loại hai là “ngưng khí qui căn”. Người ở bụng mẹ theo sự hô hấp cửa mẹ cho đến lúc sanh ra, cắt đứt cuống rún, một điểm khí phàm nương ở đơn điền, giống như một bộ rùa, phun nuốt ngươn khí, một ngày đêm thở tới lui mười ba ngàn năm trăm hơi thở, đều từ miệng mũi tuôn ra ngoài, không thể về gốc mà qui về khí huyệt, nên tuổi thọ chẳng dài, sắc thân chẳng vững chắc. Phải ở chỗ đi đứng, ngồi nằm chiếu soi trở lại và thường nạp vào khí hải. Khí hải trụ thì hình sanh, thần ngưng thì khí trụ. Thần khí kết thành gọi là dương thần. Lâu ngày xuất hình, rong chơi khắp thiên hạ, tuỳ công phu sâu cạn mà ngôi vị chẳng đồng. Quả báo hết trở lại thế gian làm người, nếu tạo nghiệp ác sẽ đoạ tam đồ. Dối nói đạo này liễu thoát luôn hồi, chẳng tu đạo này khó vào thánh vị, chưa khỏi người chí chê cười.
❓ Hai môn học về khí mạng Ngài phân biệt quá rõ ràng. Lý mạng có hai nghĩa xin ngài chỉ rõ luôn.
📣 Lý mạng có hai nghĩa là tại triền và xuất triền. Tại triền thì lấy tình làm mạng. Xuất triền khởi động là tán mạng, dứt tình là tu mạng. Xuất triền hợp với hư là chí mạng, lại gọi là phục mạng. Nhà Nho gọi là Phục mạng. Phật gọi là pháp giới. Đây là cái học của Đại thừa, có thể bảo là lý trung đạo. Nương vào đây mà tu chứng gọi đó là LÝ MẠNG. Nếu nương vào khí mạng, chẳng ngộ lý mạng rốt lại thành không, chẳng phải đạo lớn.
❓ Các bậc Thầy trong Đạo Tiên có nói: Người thấy tánh chẳng biết mệnh kia, nên khi cuối cùng về chỗ nào? Và chưa rõ, biết mệnh lý hay là khí?
📣 Người kiến tánh tự biết thiên mệnh, rốt sau rõ ràng cùng với hư hợp thể. Nho nói: “Cùng lý tận tánh là do tột ở mệnh”. Đạo Phật nói: “Tại triền gọi Như lai tạng, ra khỏi triền gọi phá giới tánh”. Nếu luyện khí mạng rời thần nương khí kết là chỗ về của ta, thì chưa khỏi báo hết trở lại rơi vào các cõi. Nên biết, thiên mệnh mới là lý gốc.
❓ Một âm một dương gọi là chánh đạo, âm dương có lẻ vạn vật chẳng sanh, do đâu lại nói không âm không dương. Nếu không âm dương có khác gì ngoan không?
📣 Động là dương, tịnh là âm, lưỡng nghi tứ tượng, ngũ hành là việc sau khi phân của thái cực. Tánh là lý trước vô cực. Trong thái cực âm dương còn chưa phân huống là vô cực lại có âm dương hay sao? Ngoan không gọi là vô linh, còn hữu linh thì chẳng phải ngoan. Kẻ hậu học chẳng ngộ lầm sanh đoạn kiến. Đạo Phật nói: “Như như chẳng động rõ ràng thường biết”. Đạo Nho nói: “Tịch nhiên chẳng động, có cảm liền thông”. Đạo gia nói: “thân tâm chẳng động về sau có vô cực chơn cơ”. Tam giáo dạy học trò lý kia không hai. Nếu ngộ chơn không thì rỗng rang mầu nhiệm chẳng mê.
❓ Đạo tôi dạy song tu một đời bay bổng, Đạo Phật tu một bên chưa khỏi thân hình suy bại. Nếu như đạo thành thì khá, nếu không được như vậy thì trở lại chưa khỏi cái khổ đầu thai dời đổi?
📣 Ông chỉ thấy một đời bay bổng, chẳng biết bao kiếp khác gieo trồng bồi đắp. Ông Mã đơn Dương, Khưu trường Xuân của Đạo gia ba đời làm bè bạn, mười đời tu hành, một phen ra đời trở lại liền đốn ngộ chánh đạo. Nay thấy kẻ lợi căn một đời đã xong, ấy đều do những kiếp xa xưa tích chứa công hạnh, cho nên giới đây mới được hiện đời thành Chơn, chớ chấp một bên mà quyết định nơi hiện đời.
❓ Cái học về khí mạng là ngụy không phải chơn thật. Theo lời nói này thì mạng thuật kia vô dụng sao?
📣 Luyện tinh hóa khí, khí ngưng tụ thì hình sanh, là thuật tu mạng kéo dài tuổi thọ. Nếu y đây để được liễu thoát thì lầm lẫn người sau chẳng nhỏ. Cần phải đốn ngộ tâm tánh mới hay siêu phàm nhập thánh.
❓ “Nê thủy kim đơn, hoàng bạch diệu thuật”, chưa biết lý kia là tà hay chánh?
📣 Tiền tài, sắc dục, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ là năm điều căn bản của địa ngục. Năm dục chẳng không sanh tử chẳng dứt. Người chơn thật học đạo phải cắt ân đoạn ái, trì giới minh tâm mới có thể chứng lý. Không biết, lại dùng “mỹ nữ thái chiến”, tổn người bổ mình, không chỉ đại tán lương tâm, mà ngày kia khó thoát khỏi hỏa ngục. Phật nói: “Tham dâm chúng sanh, ác nghiệp càng nhiều, báo nhỏ thì mắc nhiều bệnh hoạn, báo lớn thì nằm giường hỏa”.
Lại có một bọn mang nghiệp si quá lắm, tham tài thủ lợi “Thiêu mao luyện hống”. Có người hỏi tại sao vậy? Đáp là học đạo. Người xưa muốn bỏ lòng tham, còn đem tiền của bỏ xuống biển. Nay trở lại dùng chì thiết bảo đó là tu hành. Thật là quỉ quyệt lạ. Khá tiếc cho bọn tham tài hiểu sắc tự nhẩy vào con đường khổ của tam đồ!
❓ Ngài Đại thánh Lão Tử hóa làm người ẤN thành Phật. Há chẳng biết Thích ca đó là đồ đệ của Lão Tử ư?
📣 Phật đản sanh vào năm Giáp Dần đời Châu Chiêu Vương năm thứ mười bảy. Tịch vào năm Nhâm Thân vào đời Mục Vương năm thứ mười ba. Trải qua vua Cung, vua Ý, vua Hiếu, vua Di, vua Lệ, vua Tuyên, vua U, vua Bình, vua Hoàng, vua Trang, vua Hi, vua Huệ, vua Nhượng, vua Hạng, vua Khuôn, vua Định, cộng cả thảy mười sáu đời vua. Phật diệt độ sau bao trăm bốn mươi năm (340), nhằm đời vua Định Vương năm thứ mười ba mới sanh Lão Tử. Trải qua dòng cát thời gian, Phật pháp bao trùm khắp cõi xa, mở mang khắp năm xứ Ấn Độ và những nước lân cận. Thiên hạ nghe Phật pháp đã quá hơn năm trăm năm (500), dối tạo ra Lão Tử hóa người Ấn thành Phật. Đấy là vào đời Tấn Huệ Đế, do Vương Phù nguy tạ. Ấy là hành động khi dối thánh hiền, tự vào địa ngục rút lưỡi, tội kia làm sao cứu được?
Đạo sĩ nói: Đời vua Địch Vương năm thứ ba là sanh Lão Tử hậu thiên. Còn Lão Tử tiên thiên thì hóa ra người Ấn thành Phật là có?
Sư đáp: Lúc hỗn độn chưa phân, nguyên khí tự nhiên mập mờ khó biết. Tự nhiên nguyên khí này là tiên thiên. Khi thái cực đã chia, thiên địa mới phân, muôn vật phát sinh gọi đó là hậu thiên. Tiên thiên vốn không hình, hậu thiên mới có tượng. Phật sanh vào đời vua Chiêu Vương cách sự khai mở của trời đất quá xa, thế nào cái vô hình của tiên thiên lại đi giáo hóa cái hữu tượng của hậu thiên? Thật là lời nói không có lập trường vững, người nghe không khỏi bịt mũi.
❓ Ngài nói giáo lý của tôi môn khí mạng là ngoại thuật, Tâm thức tương y là Nhị thừa. Vậy còn có lý Đại thừa có thể tu không?
📣 Có lý nên tu.
❓ Xin chỉ bày lý nên tu kia.
📣 Y vào Đạo Đức kinh và Thanh Tịnh kinh mà tu thì không lỗi.
❓ Có mấy tên khác nhau, làm sao cho kẻ hậu học lầm hội. Xin thầy từ bi chỉ rõ cho kẻ chưa ngộ.
📣 Có nghi nên đến hỏi, ta tiếc gì mà chẳng chỉ bày cho ông.
❓ Xin thầy chỉ bày cái “Cốc thần bất tử” đó gọi là huyền tẩn như thế nào?
📣 Cốc là Hư, thần là Linh. Hư linh chẳng muội gõi là đó là bất tử. Huyền tẩn tức là linh cơ. Linh cơ tức là chơn tâm.
❓ Thế nào là “Huyền quang nhất khiếu”?
📣 Niệm chưa khởi, cửa tâm chưa nẩy mầm gọi là huyền quan. Mầu trong rỗng suốt, diệu trong lặng lẽ gọi là nhất khiếu.
❓ Thế nào là “thủ khảm điền ly”?
📣 Bỏ vọng là thủ khảm, trở về tâm là điền ly.
❓ Thế nào là “trừu công thiên hống”?
📣 Dứt tình là trừu công. Vô tâm tức là thiên hống.
❓ Thế nào là an lự?
📣 Chẳng ở trong chẳng ở ngoài.
❓ Thế nào là lập đảnh?
📣 Chẳng tức là Tâm, chẳng lìa Tâm.
❓ Thế nào là kim đơn?
📣 Tròn hở hở, suốt xưa thường sáng, sáng suốt rỡ ràng, mà đến nay cũng chẳng mê.
❓ Thế nào là ngươn tinh?
📣 Diệu minh chơn tinh, ứng hiện sáu công dụng.
❓ Thế nào là ngươn khí?
📣 Một tâm không vọng, hơi đức thấm nhuần nơi thân.
❓ Thế nào là ngươn thần?
📣 Ẩn hiện khó lường, ứng dụng không ngăn.
❓ Thế nào là hoả hầu?
📣 Muôn niệm muôn năm, muôn năm một niệm.
❓ Thế nào gọi là ôn dưỡng?
📣 Phản chiếu xét tâm chẳng hôn trầm chẳng tán loạn.
❓ Thế nào gọi là hàng long?
📣 Tâm sanh chẳng cho sanh tiếp, giả dụ là hàng long.
❓ Thế nào gọi là phục hổ?
📣 Dứt tình về tánh, tên khác gọi là phục hổ.
❓ Thế nào gọi động tịnh?
📣 Vô niệm mà niệm, niệm mà vô niệm.
❓ Thế nào gọi là thuỷ hoả?
📣 Định là thuỷ, huệ là hoả, bình đẳng không hai là thuỷ hoả.
❓ Thế nào gọi là chơn chủng?
📣 Ứng vật linh cơ là chơn chủng.
❓ Thế nào là thuần dương?
📣 Một niệm chẳng sanh muôn duyên lặng lẽ.
❓ Thế nào là thuần âm?
📣 Vọng tâm điên đảo sanh diệt không dừng.
❓ Thế nào là Mộc dục?
📣 Tâm trong sạch sảng khoái là mộc dục.
❓ Thế nào là thoát thai?
📣 Linh quang độc diệu, quýnh thoát căn trần.
❓ Thế nào là hoàn hư?
📣 Người và pháp đều hết. Vật và ngã nhất như.
❓ Thế nào gọi liễu dương?
📣 Chân như ra khỏi triền, pháp giới thanh tịnh.
Đạo sĩ hỏi: Người mới nhập môn hạ thủ công phu như thế nào?
📣 Ngộ trước rồi tu sau.
❓ Thế nào là ngộ trước tu sau?
📣 Đem tất cả năng và sở hàng ngày, cùng tất cả những tri kiến thiện ác, đều để ngoài tâm, chẳng giữ một chỗ nào cả, rồi riêng tham cứu câu: “Cửa huyền ở chỗ nào?” (huyền quan tại hà xứ). Suốt cả mười hai giờ cứu xét cho sâu cái nghi tham này, xem một cửu khiếu này là mặt mũi gì? Khi chơn nghi hiện tiền thì thân tâm chỉ có một cái không (rỗng). Duy chỉ có tham cứu nhứt niệm (tức chỉ còn lại cái nhứt niệm). Trở lại đem nhứt niệm này phá nát ra. Lúc ấy chơn tánh sáng rỡ, huyền quan hiển hiện. Về sau tuỳ duyên giữ gìn, trừ sạch tất cả dòng nhỏ nhiệm trôi chảy (vi tế lưu chú). Lúc bấy giờ tự đợi cùng hư thể nhập một, mới là trước sau rõ ràng ổn thoả (liễu dương).
❓ Bậc thượng căn đốn ngộ, liền đó rõ ràng. Người căn cơ bậc trung bậc hạ, tập nghiệp từ trước quá nặng, dù được đốn ngộ, nhưng mà không thể đốn chứng được. Vậy có phương tiện gì mượn để bảo dưỡng?
📣 Người ngộ lý nên tuỳ duyên giữ gìn. Suốt mười hai giờ trong lúc động tịnh, ngoài chẳng trụ có, trong chẳng giữ không, thì một tâm bình thản lặng lẽ tự hết. Nếu chợt có niệm sanh, niệm sau chẳng tiếp tục. Bậc cổ tiên nói: “Thần một phen đi liền thu trở lại. Thần trở lại trong thân khí tự nhiên hồi về. Sớm sớm chiều chiều hành như vậy thì tự nhiên xích tử kết nơi thai mầu”. Xích tử thai mầu ở đây chẳng phải thật có thai mà nói cái tâm thuần chơn như con đỏ (xích tử), lại cũng không có tưởng bên ngoài.
❓ Giữ tâm xích tử có thể gọi là đạo chăng?
📣 Tâm xích tử chẳng phải là đạo, nên tự giữ chẳng phân biệt. Tâm nếu chứng được tâm xích tử, cũng chớ giữ tâm xích tử. Lại phải chuyển vị mới là phương cách lớn.
❓ Thế nào là phương cách lớn?
📣 Tịnh như hang thần, động như mây bay, co duỗi không dấu vết, hiện ra hay lặng xuống cũng không tung tích. Chẳng mang áo quí quyền mặc áo nhơ, đi trong phi đạo để thành tựu chí đạo. Tuỳ loài dạy dỗ, cứu khắp hàm linh, tự đợi phúc và huệ đều đủ cả hai mới chứng Đại Giác Kim Tiên.
CHƯƠNG IV - ĐỐN NGỘ TU CHỨNG 🔗
Tăng hỏi: Thế nào là Tông?
Sư đáp: Muôn pháp đều qui về Tông. Tông tức là Tâm. Tâm nầy rỗng suốt mà mầu nhiệm, dung thông rộng lớn, vô trụ vô vị, không tu không chứng. Kinh nói: “Phật nói lấy tâm làm Tông, lấy cửa không làm cửa Pháp”. Từ Ấn Độ đến Trung Hoa, xưa nay chư Phật đã tao tay nhau, chư Tổ truyền thụ nhau chỉ một tâm nầy lập làm tông thể.
Thế nầy thanh tịnh vốn tự tròn sáng, theo dòng đời chẳng nhiễm ô, ngược dòng trở lại cũng chẳng tịnh, ở trong phàm chẳng giảm bớt, nơi thánh chẳng tăng thêm. Ở trong các loài tuy khác mà tâm kia chẳng hại. Trí huệ soi nó thì quang minh hiện. Phiền não che nó thì diệt thể ẩn. Nếu lìa tâm này mà tu cái gì khác, rốt lại chỉ thành tà ma ngoại đạo.
Tăng hỏi: Thế nào là giáo?
Sư đáp: Chư phật thuyết pháp, phương tiện mở ra ba thừa, năm tánh. Bồ tát tạo luận phát minh ra muôn pháp chỉ một Tâm. Người học đời sau nhơn giải bày mà được yếu chỉ, đoạn hoặc về chơn. Kẻ sơ cơ được thỏ quên dò, gia công tu tập để chứng lý.
❓ Hai môn Tông (thiền), Giáo (kinh điển) lý nó là đồng hay biệt?
📣 Tông tức là giáo không chữ (vô tư giáo). Giáo tức là tông có chữ (hữu tự tông).
❓ Hai môn Tông, Giáo lý kia vốn một. Vậy do đâu lại nói “giáo ngoại biệt truyền”?
📣 Giáo nhờ ngôn ngữ văn tự mới có thể hiểu lẽ màu. Tông (thiền) lìa ngôn ngữ văn tự, đốn ngộ nhứt tâm, nên nói “giáo ngoại biệt truyền” (truyền riêng ngoài giáo điển), lại gọi là “Tông chỉ hướng thượng”.
❓ Vậy sao nói sự truyền thụ có sâu cạn?
📣 Sâu cạn là do người, lý vốn không hai.
❓ Thế nào là lý không hai?
📣 Nghe giáo hiểu lý, phải gia công tu chứng, tự hiệp với đạo vô vi. Tông môn Đốn ngộ ắt phải mượn viên tu mới trở lại bổn tâm tịch chiếu.
Tăng hỏi: Kinh nói: “Phương tiện có nhiều cửa, trở lại nguồi tánh không hai”. Chưa biết cửa nào là cửa liễu thoát thẳng?
Sư đáp: Có hai nhơn trong ngoài có thể liễu thoát thẳng.
Tăng nói: Xin thầy chỉ thẳng hai nhơn trong ngoài ấy?
📣 Nhơn bên ngoài là phải đoạn tâm dục, sát sanh và trộm cắp. Nhơn bên trong cốt yếu là phải “Minh tâm kiến tánh”.
❓ Cớ sao nhơn bên ngoài phải đoạn dâm dục, sát sanh và trộm cắp?
📣 Chúng sanh do ý tưởng dâm dục, nên bị cột trói trong sanh tử. Sát sanh thì phải lần lượt thường mạng đã vay, nên có luân hồi. Trộm cắp thì phải trả lại cái lợi xưa, nên phải tái lai. Ba thứ nhơn nầy nếu trừ thì dòng luân hồi vĩnh viễn cắt đứt, không tiếp tục nữa.
❓ Nhơn bên trong là “Minh tâm kiến tánh” như thế nào?
📣 Minh tâm là rõ tâm vốn tịnh. Kiến tánh là thấy tánh vốn không.
❓ Thế nào là rõ tâm vốn tịnh?
📣 Tâm ở đây chẳng phải là trái tim máu thịt trong sắc thân. Tâm nầy cũng chẳng phải là vọng tâm sanh diệt, vuông chừng gang tấc ở bên trong. Trái lại, tâm nầy biến khắp pháp giới, thấu suốt mười phương, vượt ra ngoài đối đãi, dứt các hí luận chẳng diệt chẳng sanh, chẳng có chẳng không, mà rỗng suốt màu nhiệm chẳng mê, ứng vật tròn đầy khéo léo, cuốn lại hay buông ra đều chẳng ngại, ra vào ngang dọc, tuỳ duyên mà chẳng biến đổi. Đấy là chơn tâm thường trụ. Cho nên chư Phật quá khứ đều chứng tâm nầy. Hiện tại chư Bồ tát đồng học tâm nầy. Người học vị lai đều sáng tâm nầy. Chúng sanh ở trong mê là mê tâm nầy. Hành nhơn phát ngộ là ngộ tâm nầy. Một đại tang giáo chỉ làm hiển bày tâm nầy. Tâm nầy quá linh diệu khó đem ra mà nói cho hết, chỉ lược nêu ra một hai để người sau tin ngộ.
❓ Thế nào là thấy tánh vốn không?
📣 Chơn như tự tánh xưa nay vốn là không tịch, không hình không tướng, lặng trong như thái hư, chẳng động chẳng lai, ngưng nhiên thường trụ, gọi là “Bổn lai diện mục”, lại gọi là “Vô vi chon nhơn”. Tất cả sơn hà đại địa, có cây rừng bụi, sum la vạn tượng, các pháp nhiễm tịnh đều từ trong tánh nầy lưu xuất.
❓ Bản tánh và chơn tâm là một hay hai?
📣 Chẳng phải một, cũng chẳng phải hai.
❓ Thế nào chẳng phải một, chẳng phải hai?
📣 Bản tánh là thể, chơn tâm là dụng. Bản tánh như gương, chơn tâm như ánh sáng (của gương). Ánh sáng chẳng lìa gương, gương chẳng lìa ánh sáng. Cổ đức nói: “Tánh thì sáng mà mầu, ngưng đọng mà lặng trong, giống như thể của gương. Tâm thì từ mầu khởi sáng viên dung chiếu liễu, như ánh sáng của gương”. Ánh sáng và gương phân làm hai, nên chẳng phải một. Ánh sáng và gương vốn một nên chẳng phải hai.
❓ Ngài đã nói tâm tánh của Phật và chúng sanh thể chỉ có một. Do đâu Phật ở cõi thánh, còn chúng sanh nơi đất phàm?
📣 Phật và chúng sanh tánh thể vốn không. Bởi tâm có nhiễm tịnh nên gọi là thánh hay phàm.
❓ Tại sao tâm có nhiễm tịnh?
📣 Bổn tánh như gương tròn sáng không lặng. Các bậc thánh vô tâm ứng đối với sự vật, tới lui không nhiễm, gọi đó là ánh sáng tịnh (tịnh quang). Chúng sanh hữu tâm ứng đối với sự vật, phân biệt thủ xả, gọi đo là ánh sáng nhiễm (nhiễm quang). Nhiễm tịnh tuy khác nhau, nhưng thể nó không hai.
❓ Bản thể của tâm tánh có hạn lượng chăng?
📣 Có.
❓ Thể nó lớn lắm không?
📣 Gồm khắp thập hư, đầy khắp muôn cõi.
❓ Tâm tánh đã rộng lớn không ngần như vậy, do đâu lại ở trong nhục thân nầy?
📣 Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay bị cột trói, tù hãm trong thai ngục, bị cùm gông nơi nhục thân. Vọng chấp cứng ngắc, lầm cho cái tâm tánh rộng lớn ở trong thân, rồi đi nhận giặc làm con, như tù hãm trong ngục lớn, ngày nào mới được ra? Chẳng những người, trời mê lầm như vậy mà hàng tiểu thừa cũng còn như thế.
❓ Tâm tánh không ở trong thân tôi này hay suy nghĩ đó là gì?
📣 Ông nghi hỏi cái huyễn thức trong thân, hay suy nghĩ cho là tâm ta. Đấy là bóng dáng duyên theo sáu trần, làm mê hoặc chơn tánh ông. Ông vô cớ chấp cứng ở bên trong, khó thoát khỏi thai ngục. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A-Nan! Đấy là tướng tiền trần vọng tưởng hư dối, làm mê hoặc chơn tánh ông. Từ vô thỉ đến nay, ông nhận giặc làm con, làm mất cái nguyên thường của ông, nên chịu luân chuyển”. Nếu hướng vào trong đây mà sáng tỏ được tâm suy nghĩ, như bóng trong gương, như hoa đốm trong hư không, như dối hiện vành xe trong không, vốn không có thực chất.
❓ Cái suy nghĩ, ở trong thân là do bóng dáng duyên theo sáu trần. Vậy thế nào là cái chơn tánh sáng suốt mầu nhiệm của tôi?
📣 Chúng sanh chẳng ngộ tâm tánh rộng lớn, không ở trong ngoài mà lại nhận bóng dáng của trần cảnh lầm cho là hư không bao nhục thân, nhục thân bao nhục tâm, nhục tâm bao chơn tánh, rồi bị nhiều lớp cột trói, và chấp cứng vào tham ái. Há chẳng biết, hư không đại địa, muôn vật thân tâm đều là những bóng dáng từ diệu minh chơn tánh của ta hiện ra. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Các duyên hội hợp lại dao động bên trong, rong ruổi bên ngoài, mờ mịt nhiễu loạn và tưởng nhiễu loạn. Tất cả cho là tâm tánh. Một khi lầm cho là tâm rồi thì nhất định cũng lầm cho bên trong sắc thân. Chẳng biết sự vật bên ngoài sắc thân cho đến núi sông, hư không, cõi đất… tất cả đều là vật trong diệu minh chơn tâm cả”.
Sợ e ông chưa ngộ, tôi xin nêu ra một thí dụ: Bản tánh như một chiếc gương lớn cùng tận pháp giới. chơn tâm mầu nhiệm chiếu soi như ánh sáng trong chiếc gương kia. Núi sông cõi đất, sum la vạn tượng, cho đến nhục thân cùng tâm thức, tất cả đều là bóng trong chiếc gương. Chúng sanh nhận bóng cho nên phải chìm đắm trong chín cõi, bốn loài. Nếu nhận gương thì trở về chơn tâm trong chớp mắt.
❓ Tâm tánh rộng lớn, nuôi khắp muôn loài, chẳng ở trong thân, tưởng ở ngoài thân và bao trùm nhục thân, lý nầy phải chăng?
📣 Chẳng phải!
❓ Bên trong chẳng thành, bên ngoài chẳng phải, lý nầy rất ngờ, xin thầy giải cho?
📣 Bản tánh là một cái không cùng khắp, không ở trong thân, không ở ngoài thân. Chơn tâm cô trụ chẳng tức là thân, cũng chẳng lìa thân. Cho nên ngài A Nan, trong Kinh Lăng Nghiêm, chấp cái vọng không bằng cứ, bảy nơi mờ mịt. Nhị Tổ Huệ Khả ngộ lẽ chơn vốn chẳng sanh, nên chỉ một lời khế hợp với Đạo. Ông nếu ngu độn tôi chỉ bày trở lại cho ông bằng một thí dụ:
Bản tánh như bể lớn, nước trong lặng. Chơn tâm như ánh sáng của nước trong ấy. Do gió khởi động bỗng thành bọt bể. Bọt bể là sắc thân, nước bể là pháp thân, chất ướt của bọt bể là thức tánh, chất ướt của nước bể là bổn tánh. Bọt bể ướt, nước biển ướt, tánh ướt vốn có một, cho nên chẳng phải trong ngoài. Nước biển ướt, bọt biển ướt, tánh ướt mỗi cái có một như có trong ngoài. Kẻ phàm phu mê chấp bọt biển, trở lại đi bỏ bể cả vô biên. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ví như trăm ngàn bể lớn trong lặng mà bỏ đi, rồi lại nhận một tí bọt bể cho là toàn cả nước thủy triều, đều gom trong hòn bọt ấy. Tất cả các ông là những người mê gấp bội hơn trong những người mê”. Người học đời sau nếu ngộ được nước bể và nước của bọt bể, tánh ướt vốn một thì làm gì có cái chấp nhất định rằng trong hay ngoài? Chẳng ngộ được bổn tánh thật đáng buồn vậy!
❓ Chất ướt của nước biển dụ cho pháp giới tánh. Chất ướt của bọt biển dụ cho thức ở trong thân. Tánh ướt không hai chẳng trong ngoài. Đã chẳng trong ngoài khi báo hết mạng chung, lìa đây sanh nơi kia hiện có ra vào… đã có ra vào sao nói chẳng trong ngoài?
📣 Như sự khai thị ở trên của tôi, ông không thể liễu ngộ mà trở lại tìm sự sanh diệt của những bông hoa chập chờn trong hư không, có thể bảo là kẻ ngu muội thái quá.
Bởi do ngay lúc đầu chẳng giữ tự tánh, một niệm vọng động nên bị trói buộc trong thai ngục, đời đời chấp cứng, nhất quyết là ở trong thân có ra có vào, có đến có đi. Trong ngoài đến đi như hoa trong hư không. Hoa tuy có sanh diệt nhưng hư không vốn bất động. Thần thức giống như có ra vào, nhưng tánh nó vốn chẳng động. Chỉ như hoa giữa hư không là huyễn, thần thức trong thân là vọng. Nay đem hoa huyễn trong không, để phát minh vọng thức trong thân, lý kia không hai, ông nên tư xét. Ông nếu chẳng ngộ xin dẫn kinh ra để dụ:
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Thí như có người mang chiếc bình Tần già điểu, đậy kín hai miệng lại, bên trong đầy cả hư không, mang bình ấy đi xa ngàn dặm rồi dùng bình ấy tặng cho một nước khác. Nên biết thức ấm cũng lại giống như vậy. A Nan, hư không nầy chẳng phải từ phương trời kia lại, cũng không từ phương nầy vào. Như vậy A Nan, nếu từ phương trời kia lại thì ở trong bình đã có chứa hư không mang đi, và ở nơi quê hương của chiếc bình, lý ưng đã thiếu một khoảng hư không. Nếu từ phương nầy vào thì khi mở nút trút bình ra lý ưng thấy hư không rớt ra. Thế cho nên biết, thức ấm hư vọng vốn chẳng phải nhân duyên, cũng chẳng phải tự nhiên”.
Giải thích: Tần già điểu là tên của chiếc bình. Đậy hai miệng là dụ cho nghiệp thiện ác. Bình dụ cho nghiệp lựchay dẫn thức đi. Hư không trong bình là dụ cho thức theo nghiệp. Hư không ở bình và hư không ở ngoài, giống như có trong ngoài. Hư không không có hai thể, trong ngoài chỉ có một, nên chẳng phải trong ngoài. Hư không trong bình dụ cho thức vốn không, do nghiệp thiện ác mà dẫn thần thức đi, dụ như vác bình đi xa ngàn dặm. Dùng tặng nước khác dụ cho xả ở đây và thọ ở kia. Kinh nói: “A Nan! Hư không ấy chẳng phải từ phương trời kia lại, mà cũng chẳng từ phương nầy vào”. Đấy là dụ cho sự xả thân, như từ phương trời kia lại, nhưng mà thần thức của thân trước chưa từng thiếu. Sự thọ thân như từ phương nầy vào, nhưng mà thần thức của thân sau chưa từng đến. Thế nên biết, thân chết chẳng phải đi, trước khi chưa chết cũng chẳng riêng ở nơi đây. Thân sống chẳng phải đến, trước khi chưa sanh vốn cũng khắp cả nơi đây. Kẻ mê chẳng rõ cho là ở bên trong và có ra vào. Người ngộ hiểu rõ ràng thể vốn không đây kia, há lại có đến đi ư?
❓ Người ngộ rõ biết được thể vốn không đi không lại. Hiện nay có người chết đây sanh kia, tức là có tướng đi tướng lại?
📣 Các duyên hội hợp thì sanh, các duyên chia lìa thì diệt. Tuy có hiện ra tướng đến đi, nhưng mà cái “Viên minh bản nhiên” chẳng động. Kẻ phàm phu do bệnh mắt, lần nhận hoa đốm giữa hư không, có sanh có diệt theo duyên mà lưu chuyển. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Nầy thiện nam tử! Tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, điên đảo nhiều lớp. Giống như người lầm bốn hướng đổi chỗ. Lầm nhận tứ đại làm tướng của tự thân. Sáu trần duyên bóng làm tướng của tự tâm. Ví như người bệnh mắt, thấy hoa đốm trong hư không. Cho đến những hoa ấy diệt trong hư không, cũng không thể nói rằng quyết có chỗ diệt. Tại sao thể? – Vì là không sanh vậy. Tất cả chúng sanh ở trong không sanh mà lầm thấy có sanh diệt. Ấy cho nên gọi là lưu chuyển sanh tử”. Người học đời sau chẳng đốn ngộ được sự sanh diệt của huyễn thức, và tâm thể viên giác thường trụ chẳng động. Tổ Sư nói: “Hài cốt tuy có hợp có tan, nhưng có một vật màu nhiệm còn mãi” (hài cốt tuy hội tán, nhứt vật trấu trường linh). Nếu liễu đạt được tâm nầy thì có gì là sanh tử?
❓ Ngài khai thị quá rõ ràng không thể chẳng hiểu. Nhưng chẳng biết do đâu ngay lúc ban đầu lại có thân tâm của ta?
📣 Nguồn chơn trạm tịnh, biển giác lặng trong. Vốn không có đầu mối của năng sở, thì làm sao có dấu tích của danh tướng? Bởi ngay lúc ban đều chẳng giác ngộ, bỗng có động tâm, nhơn minh lập ra chiếu, theo chiếu lập ra trần. Do đó nên khiến phần bỗng chốc hưng khởi, rồi danh tướng bày khắp. giống như gương hiện tướng, thoắt khởi ra căn thân. Kế đó tuỳ theo tưởng mà thế giới thành sai khác. Về sau do yêu ghét mà chìm đắm trong ba cõi, dối thọ luân hồi không lúc ngơi nghỉ.
❓ Nếu thật như lời ngài nói ngay lúc ban đầu chẳng giác ngộ, chợt có động tâm, thoắt khởi ra căn thân. Cái huyễn thân này quả báo hết, bốn đại phân tán, cái huyễn thức trong thân đầu thai như thế nào?
📣 Kẻ phàm phu suốt ngày cứ chạy đuổi theo tình thức mà kết nghiệp hoặc thiện hoặc ác, rồi theo nhơn đã tạo mà cảm quả. Đến lúc lâm chung, cõi đất tối đen, lúc ấy thần thức gặp được chỗ có duyên, thấy một đốm sáng, chạy đến thấy cha mẹ hai tướng giao cấu, bèn khởi ra ý tưởng yêu ghét, dồn tưởng ấy rồi nhẩy vào hai giọt nước đỏ trắng, giống như đá nam châm hút sắt. Trong chớp mắt những khuấy động kia dừng lại, bây giờ ở trong thai lần lượt trải qua năm giai đoạn:
Bảy ngày đầu gọi là tạp uế. Bấy giờ tinh cha và huyết mẹ lắng lại như váng sữa mỏng, cùng hoà hợp với nhau gọi là Tạp, chẳng sạch gọi là uế. Bảy ngày thứ hai gọi là thương bào, giống như huyễn đậu. Hình dáng của thương bào như sữa gần đặc, nhưng mà chưa sanh ra máu. Bảy ngày thứ ba gọi là ngưng kết, lần đầu có dáng ngưng đọng lại, như có máu. Bảy ngày thứ tư gọi là ngưng hậu, lần lượt cứng chắc, năm tạng lần lần sanh. Bảy ngày thứ năm gọi là hình vị, lúc bấy giờ gió bên trong thổi nên sanh ra hình dáng của các căn: một thân mình và tứ chi sai khác, bảy ngày thứ năm ngũ căn đều đủ. Bảy ngày thứ sáu gọi là “phát trảo xỉ” (tóc răng đều mọc). Bảy ngày thứ bảy gọi là các cụ căn (các căn hoàn toàn đầy đủ), tất cả tạng phủ và ngũ căn đều xong xuôi. Đủ mười tháng ra khỏi thai làm người, ở trong sự ràng buộc của thức tình, phân thành sáu công dụng, thấy nghe hiểu biết tùy theo cảnh mà tạo nghiệp, sanh tử tiếp nối xoay vần không dừng.
❓ Thần thức lúc đầu thai có hình trạng chăng?
📣 Có
❓ Hình trạng như thế nào?
📣 Thần thức lúc đầu thai gọi trung hữu (trung ấm), là khoảng giữa của của tử hữu (tiền ấm) và sanh hữu (hậu ấm). Thân trung hữu của loài người hình trạng như lúc sống, hình trạng của nó chẳng hơn ba thước (thước tàu) lớn như đứa con nít năm sáu tuổi. Thân trung hữu của loài súc sanh hình trạng giống loài súc sanh, ngoài ra các loài khác cũng vậy. Tất cả đều như lúc còn đang sống. Hình trạng của thần thức tuy nhỏ, nhưng hay tạo tác các nghiệp. Đầu thai bên cha mẹ, rồi sanh niệm điên đảo yêu ghét. Người thường gọi là hồi ma.
❓ Ở đời có người chẳng đầu thai mà Đoạt xá là sao?
📣 Ở đời có những kẻ sĩ học Đạo, hoặc là người có phúc. Những người ấy chẳng nhập vào thai bào, đợi gặp chỗ có duyên, khi cha mẹ vừa sanh, chợt có tiếng động. Lúc bấy giờ điểm linh của thức quang xẹt thẳng vào thông môn, ép cho thần thức của thai dang ra, để chiếm nhà (đoạt xá) thành người. Đây là cảnh giới không thể nghĩ bị, không thể dùng ý thức tạo tác mà có thể hiểu được.
❓ Chúng sanh ở thế gian khi báo hết mạng chung, tự đầu thai vào cha mẹ, hoặc đoạt xá. Như vậy, sự thọ tội nơi địa ngục, tôi nghĩ rằng chưa ắt là có thật?
📣 Địa ngục chẳng không nhơn tâm mà có. Tất cả chúng sanh, mười tập kết nghiệp, bởi do tập thành nên theo nghiệp thọ báo. Tâm hiện ra địa ngục, chớ không phải cảnh ngoài. Bài kệ trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Nên quán tánh của pháp giới, hết thảy chỉ do tâm tạo”. Vậy nên biết, sự chịu báo ở địa ngục là do tự tâm mình hiện ra. Kinh Lăng Nghiêm nói” “A Nan! Đấy gọi là địa ngục mười nhơn sáu quả. Tất cả đều do sự mê vọng của chúng sanh mà gây ra”. Kẻ hậu học nên cẩn thận, chớ nghe nói địa ngục là hư huyễn mà khinh thường, mà chẳng dứt được ác nghiệp. Cứ đùa bỡn với tập nhơn mà phải theo nghiệp, lúc ấy tự tâm địa ngục chợt ở trước mắt. Muốn thoát khỏi cảnh địa ngục ấy, há chẳng khó sao?
Như người sanh ra ở đời, làm lành hoặc tạo ác lớn nhỏ chẳng đồng rồi tuỳ theo nhơn mà thọ quả báo. Người gieo điều lành lớn tự tâm cảm sanh lên thiên đườmg. kẻ tạo ác nhiều tự tâm cảm đoạ vào địa ngục. Người thiện ác quân bình tự đầu thai vào cha mẹ. Kẻ tội và phúc đều kém, chưa thọ sanh liền, bỗng nhiên có hình gọi là thân trung ấm: từ không mà chợt có, gọi đó là hoá sanh, có thân hình chừng ba thước (thước tàu), sáu căn lanh lợi, tới lui nhậm lẹ, không chỗ nào ngăn ngại, người khác xem như bóng mà thôi, bảy ngày chết rồi lại sanh, sống lâu không quá bốn mươi chín ngày, sống ngắn chừng hai ba thất liền thọ sanh. Thói thường gọi là hồn.
❓ Bản tánh rộng lốn, thể trùm thái hư. Chơn tâm vô trụ chẳng ở trong ngoài. Thức tâm trong thân, bị giam hãm cột trói nơi thai ngục. Xin hỏi rằng bên trong của thức tâm có chơn tâm, hay lìa ngoài thức tâm có chơn tâm riêng khác?
📣 Trong quặng có vàng, trong sóng có nước. Tạng thức tại triền che lấp chơn như. Người sơ học phải ngộ lẽ chơn và vọng. Nương vào chơn tâm thì mau chứng bồ đề, chạy theo vọng tâm thì phiêu lưu trong sanh tử.
❓ Chưa biết thức tâmở trong thân, cái nào là chơn, cái nào là vọng?
📣 Chơn tâm là Linh tri, lấy tịch và chiếu làm tâm. Vọng tâm là hữu tri, lấy phan duyên làm tâm.
❓ Thế nào là bảo vọng tâm là hữu tri, lấy phan duyên làm tâm?
📣 Vọng tâm vốn không, nhơn năng sở mà có, theo cảnh khởi phân biệt, yêu ghét thủ xả, niệm niệm phan duyên, tâm tâm loạn tưởng, duyên theo sáu trần chẳng thôi nghỉ, trụ loạn tưởng chẳng dừng. Thiên đường địa ngục vần xoay các nẻo. Chẳng sanh nhận là sanh, chẳng tử cho là tử. Như khi nhảy nhót trên cành, như ngựa giong ruổi trôi nổi trong ba cõi không có ngày dừng.
❓ Vọng tâm có biết (hữu trí) tại sao hư huyễn?
📣 Vọng tâm như trăng đáy nước, có biết như hoa đốm giữa hư không, từ năng sở mà sanh ra, nhơn phân biệt mà có, rồi phát thức dụng nơi phù căn [^10], thành ra cái vọng biết của đối cảnh. Nếu lìa tiền trần thì tâm nầy không có cái Thể. Nhơn cảnh khởi ra chiếu soi, nếu cảnh diện sự chiếu soi cũng mất. Tuỳ theo niệm mà sanh trần, niệm không thì trần cũng tàn. Nếu đem hình ảnh của việc nầy mà làm chơn thể của Phật thì có thể gọi là cái nhơn hư vọng, lại cũng thành cái quả đoạn diệt. Hư huyễn như vậy, đâu có thể là chơn thật?
❓ Thế nào là chơn tâm linh tri lấy tịch chiếu làm tâm?
📣 Chơn tâm trạm nhiên, chiếu soi mà không theo cảnh. Tuỳ duyên bao hàm cùng khắp mà chưa từng tác ý, sáng tỏ chẳng mê, rõ ràng thường biết, trải ra không dấu, cuốn lại không vết. Như đầm nước lắng trong sáng. Giống như chiếc gương sáng treo trên hư không, muôn tượng sum la bỗng nhiên soi suốt. Chẳng ra chẳng vào chẳng có chẳng không. Đây là chỗ ngàn thánh thầm về, ba đời chư Phật thường trụ. Cũng gọi là “Thiên nhơn Phật tánh”, cũng gọi là “thanh tịnh pháp thân”. Lìa đây mà tu cái nào khác, rốt lại chỉ thành tà ma ngoại đạo.
❓ Chơn tâm linh tri tại sao chơn thật?
📣 Chơn tâm lặng lẽ mà chiếu soi, trong lặng không ngằn mé, khắp cõi không thể thấy, tà ma ngoại đạo không thể tìm. Dao bén không thể làm hại, kiếp hoả không thể đốt, núi thiết vi không thể hãm, luân hồi không thể chìm đắm. Vẻ đẹp từ xưa thường sáng rỡ ràng cho đến nay chẳng mê. Người ngộ được tâm tánh chơn thật nầy, thì sự thành Phật không ở tại kiếp số.
❓ Như thế nào dứt hữu tri để thành linh tri, chuyển vọng tâm để thành chơn tâm?
📣 Vọng từ sáu căn cột, chơn từ sáu căn mở.
❓ Thế nào là vọng từ sáu căn cột và nhơn từ sáu căn mở?
📣 Tròn sáng không lặng, vốn không thế giới và thân tâm. Chợt vọng tâm hưng khởi, theo căn trần bày khắp, rồi theo trần mà sanh yêu ghét, giống như con thiêu thân nhảy vào đèn. Giong ruổi theo tình thủ xả, như con tằm tự trói mình trong kén. Nếu căn trần chẳng dính nhau thì linh quang tự nhiên chiếu sáng một mình. Nếu vật vã ngã nhứt như sáu căn tự nhiên hỗ dụng. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Ông chỉ không theo sự động, tịnh, hợp ly, điềm tịnh hay chuyển biến, thông suốt hay nghẽn bít, sanh, diệt, sáng tối… mười hai tướng hữu vi như vậy. Tuỳ theo cái nào nhổ một căn, thoát được cái niêm ngầm bên trong, thầm trở về nguyên chơn. (Lúc bấy giờ) cái minh diệu gốc phát khởi, cái diệu tánh phát sáng. Ngoài ra năm cái niêm khác cũng nhổ thoát xong. Chẳng cho tiền trần khởi tri kiến, cái sáng chẳng theo căn, nhờ căn mà cái sáng phát khởi. Do vậy nên sáu căn hỗ dụng”.
Lại nói: “A Nan! Nay các căn ông nếu nhổ xong xuôi rồi thì cái sáng suốt bên trong phát hiện. Như vậy các phù trần (11) và khí thế gian (12) cùng những tướng biến hoá. Tất cả như nước nóng làm chảy băng, liền đó nó biến thành tri giác cao tột”.
Ông nếu chưa ngộ tôi xin nói lại rõ ràng về chơn tâm và vọng tâm. Chơn tâm vọng tâm đều lấy cái biết làm thể. Vọng tâm lấy cái biết làm thể. Vọng tâm nương căn trần có biết mà biết (hữu tri nhi tri). Chơn tâm lìa căn trần không biết mà biết (vô tri nhi tri). Người mới học có lòng mộ đạo, phải ngộ chơn vọng cho rõ ràng, rồi hai thủ dụng công thì tự nhiên đốn chứng.
❓ Như ngài đã khai thị ở trên, tôi tuy được liễu ngộ, nhưng nghiệp tôi còn nặng, tâm tôi còn phù động không an, lại căn cơ kém nhỏ, chẳng thể đốn chừng. Như vậy phải làm sao?
📣 Tánh vốn không ngộ, nhơn mê mà có ngộ. Tâm vốn không tu, nhơn nhiễm mà có tu. Sở dĩ phiền não có sâu cạn, tập khí có dầy mỏng, nên mới bày ra phương tiện. Tu có đốn tiệm: Đốn tu khiến người cấu bẩn nhẹ chóng chứng viên thông. Tiệm tu khiến người chướng nặng lần lần trong bổn tánh. Nay giả nêu ra ba căn tánh để tuỳ cơ mà vào.
❓ Ba căn tánh thể nào?
📣 Người căn tánh bậc thượng thì đốn tu, bậc trung thì tiệm tu, bậc hạ thì gắng tu.
❓ Người căn tánh bậc thượng đốn tu như thế nào?
📣 Hàng căn tánh bậc thượng, căn cơ bén nhạy đã huân tập hạt giống đạo từ trước. Khi một lời buông ra thì tâm địa người ấy liền mở suốt. Tuỳ trường hợp mà bảo nhiệm hầu trừ sạch dòng lưu thức. Niệm động chẳng tiếp tục, niệm không chẳng giữ, một tâm bình thản lặng lẽ tự hết. Lúc bấy giờ chạm mắt gặp duyên đều là diệu dụng. Ngài Qui Sơn nói: “Ông chỉ tâm không gá vật, thì vật nào có thể ngại ngươi”. Lại nói: “Mỗi niệm phan duyên, nhưng tâm tâm hằng tịnh. Viên dung khắp pháp giới, đốn chứng vô sanh”. Nếu như căn cơ ngu độn lại bày phương tiện để lần hồi trở về.
❓ Người đốn ngộ tiệm tu, nhơn đâu chứng đạo quá mau?
📣 Thật có lý nầy, chẳng phải dối truyền. Thật vậy, nếu “trực hạ minh tâm”, một niệm viên tu đốn chứng, thì chẳng trải qua A tăng kỳ, đâu cần kiếp số? Kinh Đại Niết Bàn nói: “Ví như có người cỡi thuyền muốn vượt biển cả. Nếu thuận buồm xuôi gió thì chỉ trong chốc lát có thể vượt được vô lượng dặm. Còn trái lại tuy ở lâu vô lượng năm cũng không rời chỗ cũ. Lúc nào đó thuyền hư rã, chìm xuống nước mà chết. Chúng sinh cũng như vậy”. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Như huyễn tam ma đề chỉ một khảy móng tay có thể vượt qua hàng vô học(13). Cho nên hàng tam thừa (14) không biết, hàng thập địa (15) thì sợ hãi. Một niệm thành Phật, thoắt vượt A tăng kỳ kiếp”.
❓ Người trung căn tiệm tu như thế nào?
📣 Bậc thượng căn đốn tu như gió thổi mây bay, hiện vầng trăng sáng rõ trên nền trời. Hàng trung cơ tiệm tu, giống như lau chiếc gương nhơ, khi bụi hết thì ánh sáng hiện. Như có người hậu học, liễu ngộ được bổn tâm, nhưng tập khí từ trước còn nồng hậu, trí thì kém, tâm lại phù động không an, nên suốt mười hai giờ động tịnh bên trong. Tất cả đều phóng hạ (buông bỏ), thiện ác chớ nghĩ, niệm khởi liền giác, giác rồi liền không. Người xưa nói: “Chẳng sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm”. Dụng tâm như vậy, lâu ngày không vọng khởi, phải tự đợi đến lúc người pháp đều mất, thì căn trần đốn thoát, chơn tâm riêng chiếu, trải ra hay cuốn lại đều vô ngại.
❓ Sự công phu của pháp tiệm tu, nên nghiêng về tịnh toạ, hay thông cả động tịnh cũng có thể tu chứng?
📣 Đốn ngộ tiệm tu tịnh nhiều dễ thành công, còn bậc thượng sĩ động tịnh đều thiền cả. Hàng căn cơ bậc trung bỏ sự nghiêng về lý, đúng như thế ngồi tập cho thuần thục, thì tự nhiên động tịnh đều vô ngại.
❓ Hạng căn cơ bậc hạ phải gắng tu như thế nào?
📣 Kẻ hạ căn ngu độn, tâm tư chậm chạp, hôn trầm dầy nặng, trạo cử lẫy lừng, khó làm cho sách phát. Đối với hàng nầy, phải y vào sự khai thị và dẫn dắt, nhỏ nhiệm chỉ bày, giúp cho căn cơ họ phát khởi. Hạng nầy phải có tín tâm, chớ lìa tòng tâm, thường theo bậc thiện tri thức chí thành nghe dạy dỗ. Chớ nhận cảnh ma, ngày ngày nhận sự rèn luyện, giờ giờ tự mài giũa, đối trước Phật sám hối tội nghiệp của mình. Ở trong Chúng phải hạ tâm. Sau khi được ngộ không thể lìa thầy. Đại khái phải quên trần thế, sâu bồi hậu dưỡng, lâu ngày tu tập như vậy mới được tương ưng.
❓ Kẻ hạ cơ ngộ tu, do đâu lại phí sức như vậy?
📣 Kẻ căn cơ trì độn, phiền não nồng hậu, hôn trầm trạo cử, tâm lại phù động, ngu muội che nặng, nếu không cần cù tu tập thì linh cơ khó phát. Người xưa nói: “Kẻ hạ căn dùng muôn ngàn thí dụ nói cho cũng không thể lãnh hội”. Kẻ nầy dù được một ít hiểu biết cũng cho là triệt ngộ, chẳng nhận dạy dỗ, ngã mạn khinh người. Bọn người như vậy phải sanh hổ thẹn, không như vậy thì điên cuồng và rơi vào đường tẻ.
❓ Người ngộ lý bảo dưỡng chắc chắn, làm thế nào biết chơn tâm hiện tiền?
📣 Người ngộ lý khi tập khí chưa hết gặp cảnh còn thất niệm, nên cần phải hậu dưỡng. Như người chăn trâu, dắt trâu đi chỗ nào cũng nghiềm roi, đợi cho tâm nó thuần thục, bước đi ổn thoả, không phạm đến lúa mạ mới có thể buông tay, chẳng cần chăn nữa. Nếu muốn thí nghiệm chơn tâm coi được thuần thục hay chưa, nên đem việc mà bình thường mình đã yêu hay đã ghét, tìm cho ở trước mắt, thấy nghe để thử nó. Nếu y như trước mà khởi tâm yêu hay ghét thì biết rằng Đạo chưa thuần thục. Nếu gặp cảnh thuận hay nghịch mà chẳng khởi tâm yêu ghét thì biết đã gần Đạo, và chơn tâm hiện vậy.
Nếu muốn thí nghiệm trở lại tâm yêu (ái), nên tưởng tượng cảnh yêu thích nào đó. Tâm yêu thích nầy hoàn toàn lặng lẽ chẳng khởi. Muốn thí nghiệm lại tâm ghét, nên tưởng cảnh giận ghét nào đó, tâm giận ghét hoàn toàn chẳng khới. Đến đây mới có thể tự tại tuỳ duyên, đối vật không ngại.
❓ Chơn tâm chưa hiện tiền, khi dụng công dứt vọng, đồng thời cũng làm các điều lành, hầu giúp cho đạo dễ thành công. Như vậy lý kia có nên không?
📣 Dứt vọng tâm là chánh tu, làm các điều lành là trợ tu. Nếu hữu tâm làm thiệnlại dính mắc vào thiện thì nấht định rơi vào phước báo cõi người, cõi trời. Nếu vô tâm tương ưng với các điều thiện, thì có thể bảo đó là một sợ trợ giúp cho việc tu hành. Kinh Bát Nhã nói: “Tu Bồ đề, Bồ tát nếu không trụ tướng bố thí, thì phước đức kia không thể nghĩ lường”. Nay thấy có người học, chấp nghiêng về một bên chẳng thấy toàn diện. Có chút ngộ lý liền tựa vào thiên chơn, chẳng làm các điều lành, nên phước kém mà ma lại mạnh.
❓ Muôn điều thiện hữu vi là phước đức. Kiến tánh vô vi là công đức. Tại sao lại gồm tu cả hữu vi lộn xộn như thế?
📣 Hữu vi mà dính vào hữu vi thì được quả báo trời người, hữu vi mà không nhiễm thì công phu ấy được hiển hiện tánh đức.
❓ Khi đã ngộ tâm chứng lý, liền có thần thông biến hoá. Thời nay người ngộ lý rất nhiều mà người đủ thần thông rất ít. Tại sao thế?
📣 Hiển hiện thần thông biến hoá là ngọn, cần phải đạt được cái gốc của nhất tâm. Khi gốc được thành lập thì Đạo sanh, lúc bấy giờ thần thông tự nhiên hiện. Nếu chuyên lấy cái thắng tướng của thần thông biến hoá làm đạo, thì thiên ma ngoại đạo, yêu mị thần long đều là Phật cả ? (vì thiên ma ngoại đạo cũng có đủ thần thông). Muốn được thần thông chơn thật cần phải chứng pháp nhất thừa. Pháp nhất thừa nầy hay phát ra diệu dụng Bát nhã. Ngay nơi trần lao mà thành chánh giác, hiện trong sanh tử mà chứng niết bàn. Chỉ khoảng một sát na mà bỏ phàm làm thánh. Trong chốc lát biến có trở về không. Thần biến như thế chẳng phải là pháp huyễn có thể làm được.
Cổ Đức nói: “Thông có năm loại: một là Đạo thông, hai là Thần thông, ba là Y thông, bốn là Báo thông, năm là Yêu thông. Gì là yêu thông? Loài hồ ly già biến hoá ra, tinh ba của cây đá hoá ra. Thần nương tựa vào người thông huệ kỳ lạ, đấy là yêu thông. Gì gọi là Báo thông? – Quỷ thần biết nghịch, chư thiên biến hoá, sự liễu sanh của thân trung ấm, sự ẩn hiện của thần long, đấy là báo thông. Gì gọi là Y thông? – Nương pháp mà biết, duyên nơi thân mà dùng, nương nơi đạo bùa mà tới lui, thuốc bổ mầu biến, đấy là y thông. Gì gọi là thần thông? – Tịnh tâm soi vật, túc mệnh ghi giữ, muôn ngàn phân biệt đều từ định lực, đấy là thần thông. Gì gọi là Đạo thông? – Vô tâm ứng vật, duyên biến hoá khắp vạn hữu, trăng đáy nước, hoa trong không, bóng hình không chủ, đấy là đạo thông”.
Chỉ Đạo thông nầy là chơn, ngoài ra các thông khác đều là tà nguỵ. Nguỵ thì chẳng chơn, tà thì chẳng chánh, làm cho tâm hoặc loạn sanh, và mê mờ bản tánh. Cho nên người học đạo chơn thật chẳng giữ thần thông sợ trái chơn lý.
Trong sách Phụ Hành Ký nói: “Người tu tam muội, chờ phát thần thông, phải mau trừ bỏ nó. Vì là pháp hữu lậu hư vọng vậy”.
Trong chỉ quán nói: “(Thần thông) hay làm chướng bát nhã. Kẻ hạ căn vọng cầu thần thông làm chánh đạo. Bậc trí quán thật tướng của thân, quán Phật cũng vậy. Chỉ như bậc ứng hoá Bồ tát, chứng lý thánh hiền, rốt say bày hiện thần biến ắt chẳng ở đời. Nếu còn ở đời mà hiện thần thông để giáo hoá người, đây chẳng phải yêu thì cũng là ma mị”.
❓ Người chưa ngộ, mê mờ chơn lý, đuối theo vọng tình, tạo nhơn thiện ác, phải trả quả khổ vui, tuỳ theo nghiệp mà thọ sanh, lý kia chẳng còn nghi. Kẻ sĩ ngộ lý, nhanh chóng trở về chơn tâm, vượt các nhơn quả, dứt các đối đãi, điểm linh của thân sau, nương gá chỗ nào?
📣 Tất cả chúng sanh tuỳ theo nhơn mà thọ quả, lấy duyên làm chỗ sanh, nên bảo đấy là chỗ nương gá. Kẻ sĩ ngộ lý, người chứng Đạo, chẳng đồng vối phiêu linh lãng tử ở thế gian, như quỷ thú vô chủ cô hồn, trôi nổi không chỗ nương chỗ gởi. Nếu khế ngộ được bổn lý hiện tiền thì bốn phương trên dưới đều là chơn tâm. Đấy là toàn thân thọ dụng, không có chỗ nương gá nào riêng khác. Cổ Đức nói: “Suốt cõi đất là một mắt của sa môn”. Lại nói: “Suốt cõi đất là Già lan”.
Thượng Thơ Ôn Tháo hỏi ngài Khuê Phong rằng: “Người ngộ lý một phen tuổi thọ hết, phải nương gá chỗ nào? Khuê Phong đáp: Tất cả chúng sanh đều dó đầy đủ giác tánh linh minh, cùng Phật không khác. Nếu hay ngộ tánh nầy tức là pháp thân, thì vốn tự vô sanh có gì nương gá? (Tánh nầy là) cái sáng suốt màu nhiệm chẳng mê, rõ ràng thường biết, không từ đâu đến và cũng không trở về đâu. Chỉ lấy không tịch làm tự thể chớ nhận sắc thân. Lấy linh tri làm tự tâm, chớ nhận vọng niệm. Vọng niệm nếu khởi đều chẳng theo nó, thì khi lâm chung nghiệp không thể trói buộc. Tuy có thân trung ấm mà chỗ đến tự tại, cõi trời cõi người tuỳ ý gởi nương, tất cả những dòng trôi chảy nhỏ nhiệm đều rỗng cả, chỉ còn có viên giác đại trí soi sáng. Tuỳ cơ hoá độ chúng sanh có duyên, ngộ tâm chứng lý, đồng thành Phật đạo”
❓ Xưa có những bậc Cao Tăng, toàn thân ngồi hoá, lâu năm chẳng hư hoại, móng và tóc mọc dài ra, chưa biết việc nầy là đạo lý gì?
📣 Đấy là hàng Tiểu thừa thân trụ trong diệt định. Định nầy chỉ diệt đệ lục thức, còn đệ bát thức duy trì thân thể. Tất cả đều do chán hữu thích không, tạm mong dừng hơi thở. Tuy nhiên, nhập định nầy trải qua thời gian dài lâu mà hơi ấm chẳng diệt mất, về sau thức khởi đậy như rét cách ngày. Phải ngộ tánh định mới thoát khỏi luân hồi.
❓ Ngài Ca Diếp đắc diệt tận định, cùng với diệt định của Tiểu thừa là đồng hay khác?
📣 Đại thừa lý diệt, Tiểu thừa sự diệt. Diệt tận của đại thừa do đầy đủ năm uẩn, hai thức thứ bảy và thứ tám, hay dẫn oai nghi, định hay tán đều vô ngại, sự và lý đều chẳng bỏ. Hàng tiểu thừa tuy có sắc hành, tiền lục thức đã lặn mất, nhưng toàn thiếu oai nghi, định và tán chẳng viên mãn, bỏ sự nghiêng về tịch. Cho nên định chẳng đồng.
CHƯƠNG V - GIÁO THỪA SAI BIỆT 🔗
❓ Ở trên ngài đã khai thị một cách rộng rãi về pháp môn Đốn ngộ, kẻ học muộn nầy thấy đã quá rõ ràng. Nhưng còn vài điểm sai biệt trong giáo lý xin ngài nhỏ nhặt khai thị trở lại cho.
📣 Ông cứ hỏi, ta sẽ đáp, ta chẳng phụ lòng ông đâu.
❓ Thế nào là “muôn pháp về tâm” (vạn pháp qui tâm)?
📣 Như vàng tuỳ người thợ làm ra nhiều món đồ. Những món đồ ấy cho vào lò nấu chảy ra chỉ có một thể. Muôn pháp về tâm cũng như vậy.
❓ Pháp môn đốn ngộ có sức thù thắng gì?
📣 Chánh giải viên tu, sức nó vượt qua kiếp số, tuy ở trong sanh tử mà thường vào niết bàn, thường ở trong trần lao mà hằng ở trong Tịnh độ. Đầy đủ mắt thịt mà mở mắt huệ. Đổi tâm phàm mà đồng với tâm Phật. Tin biết pháp môn đốn ngộ công đức lớn lao hơn cả.
❓ Minh tâm kiến tánh, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Lời nói hay không có chỗ y cứ?
📣 Người học dụng tâm thân thiết, tham cứu lẽ chơn thật, chợt được thân tâm nhứt như, ánh sáng trí tuệ thoát phát khởi, thấy sự từ hoại kiếp trở về trước để thân đến chỗ bản giác. (Đến chỗ nầy) có miệng khó nói, có viết khó thuật. Như người uống nước lạnh nóng tự biết. Muốn mở phương tiện để hiển bày bổn tâm, phải mượn giáo thừa để làm thí dụ.
❓ Thiền tông dạy người chẳng xem kinh, nếu gom được chút hiểu biết nào, tự thành kẻ tri thức văn tự phải chăng?
📣 Muốn nghiêncứu giáo thừa phải tìm tòi trong bảo tạng, mỗi mỗi phải tiêu hoá trở về tự kỷ, lời lời phải thầm hợp bản tâm, chỉ sợ e chấp văn sanh hiểu, không chịu qui hội về bản thể, cho nên cười chê xem kinh để thành thánh nhơn văn tự.
❓ Thế nào là mê, thế nào là ngộ?
📣 Nhơn bản giác chơn tâm khởi ra bất giác gọi là mê. Nhơn bất giác thành thỉ giác, rồi trở về chơn tâm gọi là ngộ. Cho nên nói: “Nhơn đất mà té, thì cũng nhơn đất mà dậy”. Mê ngộ tuy khác mà chơn tâm không hai.
❓ Tại sao người khế lý, đối với chôn vọng phải dứt cả hai?
📣 Nhơn vọng mà nói chơn, chơn không có tự tướng. Từ chơn khởi vọng, nên vọng thể vốn không. Vọng đã vốn không, chơn cũng chẳng thành lập. Chơn vọng đều dứt cả hai thì bản tâm thường trụ.
❓ Tông môn đốn ngộ “đơn đao trực nhập”, nào dùng ngôn ngữ bàn luận rộng rãi sai khác?
📣 Kẻ sĩ tham cứu lẽ huyền phải có đủ hai mắt: một là kỷ nhãn để sáng tỏ thiền; hai là trí nhãn để phân biệt được hoặc nghiệp. Thiền Tông nói: “Chỉ sáng tỏ được tự kỷ mà chẳng rõ được việc trước mắt, người như thế chỉ có một mắt, lý đơn sự chiết, rốt lại chẳng viên thông”. Nếu cho trí huệ là quấy thì Đại trí Văn Thù chẳng xưng là con đấng Pháp Vương? Nếu cho dứt học là phải, thì Vô Văn tỳ kheo chẳng làm người ở địa ngục. Tất cả đều do cửa ải ý thức bị khoá, nếu không có chìa khoá trí huệ thì khó mà mở. Tự cho rằng “tình tưởng câu khiên”, nếu chẳng có gươm trí huệ thì khó dứt. Người tiến tu viên thông, chớ có cái chấp bặt lời (không học).
❓ Bậc viên đốn tu chứng trở lại rơi vào nhơn quả chăng?
📣 Trên đến chư Phật, dưới đến chúng sanh đều thu vào nhơn quả. Vậy có thể bác không nhơn quả sao? Chỉ do ngoại đạo chẳng đạt lý duyên sanh, duy chấp tự nhiên, bác không nhơn quả. Hàng nhị thừa chột mắt chỉ chứng thiên không (nghiêng về không), trí diệt thân tàn xa lìa nhơn quả. Kẻ phàm phu bị nghiệp trói tham đắm năm dục, nên nhà cửa đốt thân, chấp trước nhơn quả. Tất cả đều thành cuồng giải, tự mê muội lý viên thường. Chỉ lấy thật tướng làm nhơn, thật tướng làm quả, chớ tạo cái chấp bác không (nhơn quả) mà rơi vào đường tà. (Được như vậy mới) chóng thành viên nhơn, chóng chứng diệu quả.
❓ Ở đời có những kẻ sĩ khế lý, xưng là Đạo nhơn vô tâm. Nếu là vô tâm thì đồng như cây đá, do đâu mà các bậc thánh hiền có trí huệ lớn?
📣 Đạo nhơn vô tâm chẳng đồng với cây đá, vô tâm là không tâm phân biệt, không tâm yêu ghét, không thủ xả, không tâm thiện ác, không tâm có không, không tâm ở giữa hay một bên, không tâm trong ngoài, không tâm chấp trước, chớ chẳng phải không chơn tâm linh tri tịch chiếu.
❓ Người xưa nói: “Chớ bảo vô tâm ấy là Đạo vô tâm còn cách một lớp cửa”. Vậy thế nào?
📣 Chơn tâm hư huyễn chẳng có chẳng không. Nếu bỏ có (hữu) trụ không (vô), trở thành lỗi lớn. Cổ Đức có kệ rằng:
Khuyến quân học đạo chớ tham cầu Vạn sự vô tâm đáo hợp đầu Vô tâm thỉ thể vô tâm đạo Thể đắc vô tâm vô dã hưu.
DỊCH:
Khuyên anh học đạo chớ tham cầu Muôn sự không tâm đến hợp đầu Không tâm thể nhập không tâm đạo Nhập được không tâm không cũng thôi.
❓ Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?
📣 không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
❓ Thế nào gọi là không biết mà biết, biết mà không biết?
📣 Không biết (vô trí) là thể của tâm. Biết là dụng của tâm. Thể hay phát ra diệu dụng: không biết mà biết. Dụng chẳng lìa thể: biết mà không biết. Dụng nếu lìa thể là cái biết trụ tướng. Thể nếu không dụng gọi là ngoan không.
❓ Thế nào là có niệm mà biết là vọng?
📣 Sáu căn đối cảnh động niệm phân biệt: có niệm mà biết, nên cho là vọng.
❓ Thế nào vô tâm mà biết là chơn?
📣 Chơn tâm ứng vật như gương soi hình tượng, vô tâm mà biết nên gọi là nhơn.
❓ Thế nào là chánh tri kiến?
📣 Chẳng nương căn trần mà có tri kiến là chánh. Nương gá căn trần mà khởi tri kiến là tà.
❓ Thế nào là tam bảo?
📣 Nhứt tâm không tịch là Phật Bảo. Tịch mà thường chiếu soi là Pháp Bảo. Chiếu soi mà không nhiễm là Tăng Bảo.
❓ Thế nào là cúng Phật một cách chơn chính?
📣 Sáu căn đối cảnh sáu thức chẳng sanh, chơn tâm độc chiếu là nghe pháp chơn chính.
❓ Thế nào là xuất gia chơn chính?
📣 Chẳng trụ ngôi nhà ngũ uẩn, ấy gọi là người xuất gia chơn chánh.
❓ Thế nào có thể chẳng trụ năm uẩn?
📣 Thấy cái nương vào căn thì sắc uẩn không (rỗng). Đối cảnh vô tâm thì thọ uẩn không. Biết mà không biết thì tưởng uẩn không. Tâm tâm không nhiễm thì hành uẩn không. Chơn tâm thường trụ thí thức uẩn không.
❓ Thế nào là “không tức sắc, sắc tức không”?
📣 Thấy không rồi trụ không là “không tức sắc”. Thấy sắc chẳng trụ sắc là “sắc tức không”
❓ Thế nào là “tức Tâm tức Phật”?
📣 Tâm và Phật không hai chớ hướng bên ngoài mà tìm cầu.
❓ Thế nào là “phi tâm phi Phật”?
📣 Phá cố chấp, trừ hiểu biết, tâm và Phật vốn không.
❓ Thế nào là “ba tâm không thể được”?
📣 Quá khứ, vị lai, hiện tại, ba tâm xưa nay vốn không tịch. Bỗng vọng khởi ra hoa đốm giữa hư không, làm che khuất cái viên minh chơn thật.
❓ Thế nào gọi là chơn không?
📣 Chơn tâm thể tịch, máy mầu khởi dụng chiếu soi. Tịch và chiếu không hai gọi đó là chơn không.
❓ Thế nào gọi là diệu hữu?
📣 Đồng chiếu soi lẽ hữu vô, phân biệt rõ ràng, nhưng chẳng rơi vào năng sở, gọi là diệu hữu.
❓ Thế nào nói rằng “chỉ được gốc chớ lo ngọn”?
📣 Nếu ngộ được chôn tâm vốn không, thì muôn pháp tự nhiên tiêu mất.
❓ Thế nào gọi “Phiền não tức bồ đề”? Vô minh tức Phật tánh?
📣 Niệm trước sanh tức là phiền não, niệm sau chẳng trụ tức là bồ đề. Niệm trước động tức vô minh, niệm sau chẳng tiếp tục tức Phật tánh.
❓ Thế nào là “thường chẳng lui”?
📣 Người ngộ bản tâm gồm cả giới, tu, chứng một đời có thể xong, vĩnh viễn không lui rớt. Kẻ nương văn giải nghĩa, tập khí nặng, tâm trôi nổi không gồm tu quán và giữ giới, khi gặp duyên tự lui sụt.
❓ Thế nào gọi là Lục độ?
📣 Đốn ngộ chơn tâm là đầy đủ lục độ.
❓ Thế nào ngộ chơn tâm đầy đủ lục độ?
📣 Nếu ngộ chơn tâm hành lục độ có căn bản, còn mê chơn tâm hành sáu độ như mù. Cớ sao chơn tâm bảo là căn bản? – Chẳng ngộ chơn tâm mà hành bố thí thì một đời được vinh hiển, sau sẽ chịu họa tai. Chẳng ngộ chơn tâm mà trì giới, thì sanh lên cõi trời dục giới, hết phước trở lại rơi vào ngục nê tê. Chẳng ngộ chơn tâm mà hành nhẫn nhục, thì được quả báo đoan chánh, nhưng chẳng chứng tịch diệt. Chẳng ngộ chơn tâm mà tinh tấn, thì luống tăng thêm sự sanh diệt, công phu chẳng đến được lẽ chơn. Chẳng ngộ chơn tâm mà thiền định, chỉ đi trong cõi trời sắc giới, chớ chẳng về được pháp giới. Chẳng ngộ chơn tâm mà có trí huệ, thì khéo hiểu ngữ nghĩa, tất cả đều thành hữu lậu. Ngộ chơn tâm nầy thì thành tựu được muôn đức. Mê chơn tâm nầy thì công hạnh bày ra đều rỗng.
❓ Thế nào là giới, định, huệ, ba môn học vô lậu?
📣 Bên ngoài chẳng tìm có, bên trong chẳng giữ không gọi là giới. Một niệm, chẳng sanh muôn duyên không lặng gọi là định. Khéo hay phân biệt chẳng sanh yêu ghét gọi là huệ. Ba môn vô lậu nầy là sự học của đại thừa.
❓ Thế nào là tam học của tiểu thừa?
📣 Chỉ chấp nơi thân, đoạn tứ trụ bịnh gọi là giới. Thân hình đồng như cây khô, dứt sự hiển hiện oai nghi gọi là định. Chỉ chứng thiên không mất lý trung đạo gọi là huệ. Cho nên gọi là pháp nghèo (bần pháp), là vùi lấp định huệ. Ngài Tịnh Danh quở đó là pháp Tiểu thừa.
❓ Người mới phát tâm tập định từ đâu mà vào?
📣 Kẻ sơ tâm học tam muộn, “nên cột tâm vào một duyên”, tập lâu được định, chơn huệ tự nhiên phát khởi.
❓ Thiền có mấy loại?
📣 Thiền có năm loại.
❓ Năm loại thế nào?
📣 Một là người khởi kiến chấp khác, thích cõi trên chán cõi dưới mà tu, đấy gọi là thiền ngoại đạo. Hai là người chánh tín nhơn quả cũng lấy tâm hàn yểm (thích chán) mà tu, đó là thiền phàm phu. Ba là người liễu ngộ lý sanh không, nghiêng chứng chơn đạo mà tu, đấy là thiền Tiểu thừa. Bốn là người ngộ được người và pháp đều không hằng trụ ở lý Trung mà tu, đó là thiền đại thừa. Năm là người vượt khỏi những dị kiến, các pháp bình đẳng mà chứng, đấy là thiền Như Lai.
❓ Thế nào gọi Như Lai?
📣 Tịch chiếu không hai gọi là như. Bi nguyện chẳng bỏ gọi là lai. Kẻ phàm phu Lai mà chẳng Như. Tiểu thừa Như mà chẳng Lai. Chỉ có Phật thừa Như mà hay Lai.
❓ Thế nào là ba pháp quán: Không, Giả, Trung?
📣 Phản chiếu tự tâm vốn không chỗ khởi, chỗ khởi vốn không gọi là Không quán. Từ chỗ không khởi mà vọng sanh ra các pháp, các pháp chẳng thật, gọi là giả quán. Không, Giả vốn không chẳng dừng lại hai đầu, toàn thể là chơn tâm, gọi là Trung quán.
❓ Thể dụng của chơn tâm phân chia như thế nào?
📣 Thể của chơn tâm thì mênh mang mà không lặng. Dụng của chơn tâm thì rõ ràng giác biết. Mênh mang không lặng chẳng đồng với ngoan không, nó lặng mà thường chiếu soi. Rõ ràng giác biết chẳng phải là sự nhiễm trước của thừa, nó chiếu soi mà thường lặng (tịch), lặng và chiếu chẳng hai gọi là chơn tâm.
❓ Thế nào là “không nơi chốn, không chỗ nào chẳng nơi chốn” ?
📣 Chơn tâm thể nó không (rỗng), nên nói không nơi chốn. Thể không ấy biến khắp, nên không chỗ nào chẳng nơi chốn.
❓ Chơn tâm biến khắp không chỗ nào chẳng nơi chốn. Tại sao thân biết mà chỗ khác chẳng biết?
📣 Chơn tâm thể nó rỗng, pháp giới nhứt như, tùy duyên mà khởi hiện, chỗ ứng hợp mới biết.
❓ Thế nào bốn đảo của phàm phu?
📣 Đảo thứ nhất thân chẳng tịnh mà tưởng là tịnh. Đảo thứ hai thọ vốn là khổ mà tưởng là vui. Đảo thứ ba, vọng tâm không thường mà tưởng là thường. Đảo thứ tư, vốn trong vô ngã mà tưởng là ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy là phàm phu chấp có.
❓ Thế nào là bốn đảo của nhị thừa?
📣 Thứ nhứt, thân không (rỗng) vốn tịnh mà khởi tưởng rằng chẳng tịnh. Thứ hai, thọ vốn là chỗ không mà khởi tưởng rằng khổ. Thứ ba, tâm vốn chơn thường mà khởi tưởng là vô thường. Thứ tư, vô ngã tức chơn ngã mà khởi tưỡng là vô ngã. Bốn cái tưởng lộn ngược nầy, hàng nhị thừa rơi vào không.
❓ Thế nào lìa tám cái đảo được thường lạc ngã tịnh?
📣 Tất cả chúng sanh ở trong sanh tử vọng khởi chấp trước bốn đảo thường lạc ngã tịnh. Hàng nhị thừa ở trong niết bàn vọng cầu giải thoát đoạn bốn đảo. Chư Phật Như Lai xa lìa tám cái đảo, được thường lạc ngã tịnh, chứng bốn ba la mật.
❓ Chơn tâm vô phân biệt, nếu là vô phân biệt như đi trong đêm đen, mờ tối chẳng biết?
📣 Phàm luận về phân biệt có ba loại: một là căn thức mới sanh tùy niệm phân biệt; hai là ý thức liễu biệt kế độ phân biệt; ba là chơn tâm ứng vật, như gương chiếu hình tượng, sáng suốt rõ ràng, giống như có phân biệt.
❓ Thầy đã giải bày có ba loại phân biệt. Cái nào là chơn cái nào là vọng?
📣 Căn thức, ý thức phân biệt đều là vọng. Chơn tâm ứng vật rõ ràng thường biết, tuy giống như phân biệt mà thật thì vô phân biệt.
❓ Thân Phật vô hình, dụ như hư không, do đâu lại có tướng sáu căn?
📣 Ngay nơi tướng để sáng tỏ cái chơm, nào trái với đại dụng? Thắng nghiệp lợi tha chẳng dứt cửa giáo hóa nầy. Cổ Đức có kệ rằng: “Hư không không tướng, mà hiện các tướng, Pháp thân cũng vậy, đầy đủ sáu căn tướng”.
❓ Thế nào là chơn giải thoát?
📣 Sáu căn chiếu cảnh không bị cảnh trói buộc, tất cả chẳng trụ gọi là chơn giải thoát.
❓ Thế nào là hàng ma?
📣 Từ bi nhẫn nhục với kẻ dưới là hàng thế ma. Nhứt tâm không hai là phục tâm ma. Chẳng dùng diệu thuật linh phương mà bầy ma trong, ma ngoài tự lui.
❓ Thế nào là Tam như lai tạng?
📣 Chơn tâm tròn sáng thể nó không tịch gọi là không như lai tạng. Không tạng hay phát khởi hằng sa diệu dụng, gọi là bất không như lai tạng. Thể hay phát dụng, dụng chẳng lìa thể gọi là “không bất không như lai tạng”.
❓ Thế nào là tám thức?
📣 Tám thức là nhãn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân, ý, mạt na và a lại da thức.
❓ Xin thầy phân rõ khả năng và tướng dụng của tám thức.
📣 Thức thứ tám gõi là tâm, gom nhóm những hạt giống của các pháp, rồi nương vào hạt giống ấy làm nhơn sanh ra các pháp. Thức thứ bảy gọi là ý. Ý duyên tàng thức và các thức khác, hằng suy xét nghĩ lường làm ngã. Ngoài ra sáu thức kia gọi là thức. Sáu thức kia phân biệt cảnh thô và động, có gián đoạn, phân biệt rõ ràng và chuyển.
❓ Trong kinh Lăng Già, nói rõ về ba loại thức là chơn thức, hiện thức và phân biệt sự thức. Ba loại thức nầy thế nào xin phân rõ?
📣 Chơn thức là thức thứ chín, còn có tên khác là bạch tịnh thức. Thức thứ tám là tàng thức, hay hiện ra các pháp (gọi là hiện thức). Ngoài ra bảy thức kia đều gọi là phân biệt sự thức. Tuy rằng thức thứ bảy chẳng duyên cảnh trần bên ngoài mà hay duyên thức thứ tám, nên còn chỗ phân biệt.
❓ Thế nào chuyển tám thức thành bốn trí?
📣 Chuyển năm thức đầu làm thành sở tác trí, chuyển thức thứ sáu làm diệu quan sát trí, chuyển thức thứ bảy làm bình đẳng tánh trí, chuyển thức thứ tám làm đại viên cảnh trí.
❓ Thế nào là đại viên cảnh trí?
📣 Chơn tâm không tịch như gương thường sáng.
❓ Thế nào là bình đẳng tánh trí?
📣 Hay đối với các pháp mà chẳng sanh phân biệt.
❓ Thế nào là diệu quan sát trí?
📣 Hay vào các căn phân biệt mà chẳng nhiễm.
❓ Thế nào là thành sở tác trí?
📣 Năm căn đối cảnh, chính lúc ấy cảm giác khó lạc chẳng xâm nhập.
❓ Thế nào là gom bốn trí thành ba thân?
📣 Thành sở tác trí và diệu quan sát trí gom về hóa thân. Bình đẳng tánh trí gom về báo thân. Đại viên cảnh trí gom về pháp thân.
❓ Thế nào là pháp thân?
📣 Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không tịch.
❓ Thế nào là báo thân?
📣 Khéo đối với các pháp, tất cả đều bình đẳng.
❓ Thế nào là hóa thân?
📣 Thành tựu được sức bản nguyện, mới ứng ra làm các việc.
❓ Kinh Viên Giác nói: “Đại viên cảnh là già lam của ta, thân và tâm đều cư ngụ nơi bình đẳng tánh trí. Do đâu (kinh Viên giác) không chỉ bày thành sở tác trí và diệu quan sát trí”?
📣 Đại viên cảnh trí là lặng lẽ mà chiếu soi (tịch chiếu). Bình đẳng tánh trí là chiếu soi mà lặng lẽ. Diệu quan và thành sở chỉ cho pháp thân khi hành động trong mê. Dùng diệu quan sát thu mười tám giới. Tất cả trần lao chuyển làm thành sở tác rồi gom về đại viên cảnh.
Kinh Lăng Già nói: “Phật dạy Đại Huệ: một đêm ba thời, thường dùng diệu quan sát trí, khiến trừ sạch hiện lưu thức. sáu căn là thành sở tác trí, như khi bàn tay để ngửa, không nên hỏi rằng bàn tay úp chỗ nào? Cũng như khi băng tan ra thành nước, băng và nước chẳng có sự khác nhau”. Trong môn lợi tha, nương vào sức bi nguyện, dùng diệu quan và thành sở mà làm lợi khắp hàm linh. Cổ Đức nói: “Chúng sanh chẳng biết, nên chấp cái tên của tám thức. Chư Phật chứng đắc nên hay thành được cái dụng của bốn trí”.
Nếu mê muội thì thức thứ tám khởi lên cái tên là báo tàng. Thức thứ bảy được tên là nhiễm ô. Thức thứ sáu khởi lên cái tình biến kế. Tiền ngũ thức chạy theo tướng của căn trần. Nếu ngộ nó thì A-lại-da thành cái thể của viên cảnh, là cái cửa giữ gìn công đức. Mạt na là nguổn gốc của bình diệu đẳng, tánh tự tha chỉ có một. Thức thứ sáu là cái diệu của sự quan sát, hay chuyển vành xe chánh pháp. Tiền ngũ thức là hưng khởi công đức đã làm, rủ theo dấu vết của ứng thân và hóa thân. Nhứt tâm chẳng động, thức trí tự phân, chẳng đổi cái thể của tám thức mà chỉ đổi cái tên của tám thức mà thôi.
❓ Người ngộ lý chuyển thức thành trí, kẻ còn trong mê theo thức mà lên xuống. chưa biết tám thức có lớn nhỏ chăng?
📣 Thức tâm vi diệu, không thể nghĩ bàn, theo nghiệp thọ thân lớn nhỏ chẳng đồng. Kinh Hiển Thức nói: “Phật bảo Đại Lạc! Như gió không hình không chất, dừng ở trong hang tối, hoặc trong lỗ hở, gió xuất hiện rất dữ tợn, hoặc làm ngã núi Tu di nát thành bụi nhỏ. Gió vi diệu không hình không chất, thức cũng như vậy”.
❓ Lấy gì làm nhơn chìm đắm trong bốn loài sanh sản (tứ sanh)?
📣 Tinh là nhơn của sự sanh sản bằng thai (thai sanh). Tưởng là nhơn của sự sanh sản bằng trứng (noãn sanh). Tình và tưởng hợp lại làm nhơn sanh sản từ nơi ẩm ướt (thấp sanh). Tình và tưỡng lìa là nhơn của hóa sanh. Tất cả sự sanh sản ở trên đều do ý thức tạo nghiệp, rồi tùy nghiệp mà có sự thăng trầm. nếu ý thức đốn không (rỗng suốt một cách mau chóng), thì sự luân hồi vĩnh viễn dứt.
❓ Thế nào là ngũ nhãn?
📣 Bên ngoài chẳng trụ có là nhục nhãn. Bên trong chẳng trụ không là thiện nhãn. Không và có đều dứt là pháp nhãn. Chiếu soi cả hai (không hữu) mà không nhiễm là huệ nhãn. Lìa tất cả tướng là Phật nhãn.
❓ Thế nào là lục thông?
📣 Sáu căn đối cảnh tới lui không chướng ngại là lục thông.
❓ Thế nào là Đẳng giác, và thế nào Diệu giác?
📣 Đẳng giác là tịch và chiếu không hai, các pháp bình đẳng. diệu giác là tịch và chiếu dứt cả hai, thể chơn thường tỏa sáng một mình.
❓ Thế nào là biến dịch sanh tử, và thế nào là phần đoạn sanh tử?
📣 Biến dịch sanh tử là khi bồ tát thành tựu bi nguyện, làm lợi ích cho loài hữu tình. Tuy ở trong sanh tử mà không đồng với phàm phu còn nghiệp hữu lậu thấm nhuần. Phần đoạn sanh tử là do vọng tâm của phàm phu tạo ra, niệm niệm đều do đam mê chấp trước, lại thêm phiền não chướng, nên cuốn vào vành xe khổ lớn không lúc dừng nghỉ.
❓ Thế nào là “Đều sào trăm trượng phải tiến bước, mười phương thế giới lộ toàn thân”?
📣 Tâm như lai tạng, vốn từ một tinh minh mà theo trần trôi chảy, phân là sáu công dụng rồi chuyển xoay theo vật, trôi nổi trong sanh tử. Nếu như biết quay về căn trần không giao nhau, trở lại dòng toàn có một. Sáu công dụng chẳng hiện hành thì trạm nhiên thuần tịnh như gương thường sáng. Nếu giữ tâm nầy có thể gọi là rơi từ trên đảnh (đảnh đọa), lại có tên là Hầm sâu giải thoát (giải thoát thâm khanh). Đây là cái tri kiến nghiêng về không. Lại phải tiến bước, thì mười phương thế giới mới lộ toàn thân. Đập nát chiếc gương đi, sơn hà đại đại toàn bày pháp thể.
❓ Thế nào “Chẳng trụ vô vi, không tận hữu vi”?
📣Tuy chứng pháp thân mà chẳng giữ thật tế (chỗ chơn thật), bi nguyện tiếp vật nên tùy loài lợi sanh. Tào Sơn nói: “Chớ đi đường tâm ấy, chẳng mặc áo bản lai, phải thế nào mới đúng? – Tối kỵ lúc chưa sanh” (mạc hành tâm lộ xứ, bất quải bản lai y, hà tu chánh nhậm ma? – Thiết kỵ vi sanh thời). Hàng Đại thừa bồ tát làm lợi ích và dẫn dắt chúng sanh, chẳng dừng ở vô vi mà phương tiện mặc áo nhơ (cấu y), chẳng dứt hữu vi mà đi trong phi đạo, để tùy loài đồng sự, độ thoát cho các loài hữu tình, nên chỉ bày cái nhiễm, tu cái tịnh, thông đạt đến Phật đạo.
❓ Thế nào là sám hối chơn thật?
📣 Người đời tạo đủ bốn tội trọng, mười điều ác, nghiệp nhơn đã cùng cực sẽ đọa vào tam đồ. Chợt sanh lòng hổ thẹn, phát đại dũng mãnh, gần bậc thiện tri thức, đốn ngộ bản tâm, những ác nghiệp từ bao kiếp trưcớ, và những tội lỗi hiện đời, như nước sôi làm chảy tuyết, như lửa cháy củi khô. Nghiệp hết phúc sanh, trí huệ phát hiện, trở lại đem những sở đắc của mình mà chỉ thẳng cho người sau, được đốn ngộ tâm tánh để cùng thành Chánh giác, gặt hái được phúc vô lượng, công đức còn hơn cát sông Hằng.
CHƯƠNG VII - 5 TÔNG PHÁI THIỀN 🔗
Tăng hỏi: Ngài Đạt Ma từ Ấn sang “chỉ thẳng nhứt tâm”. Do đâu từ đời Lục Tổ về sau lại chia làm năm phái? Mỗi nhà riêng lập môn đình và bày ra những tướng lạ sai khác nhau?
📣 Như vàng làm ra đồ vật, mỗi vật đều là vàng. Giống như lủa chia các đèn, nhưng mỗi đèn đều là lửa. Tuy cành sung lá thanh nhưng mà rễ nó vốn một thể. nếu mắt trí rỗng sáng thì tự nhiên rõ pháp không hai.
1- TÔNG LÂM TẾ
❓ Chủ trương Tông Lâm Tế như thế nào?
📣
Lâm Tế gia phong Bạch niêm thủ đoạn Thí như sơn băng Cơ tợ điện quyện Xích thủ sát nhơn Độc chưởng truy mạng Bổng hát giao tri Chiếu dụng tề hành Tân chủ lịch nhiên Nhơn cảnh tung đoạt Nhứt thiết sai biệt danh tướng Bất ly hướng thượng nhứt trứ.
DỊCH:
Thói nhà Lâm Tế Nắm rõ thủ đoạn Thí như núi lở Cơ như điện chớp Tay không giết người Tay độc tìm mạng Gậy, hét lẫn dùng Chiếu dụng đều hành Chủ khách rõ ràng Người cảnh đều đẹp Tất cả danh tướng sai khác Không lìa một lối hướng thượng.
❓ Thế nào là tám loại gậy? (bát bổng)
📣 Gậy thưởng, gậy phạt, gậy tung, gậy đoạt, gậy ngu si, gậy hàng ma, gậy tảo tích, gậy vô tình.
❓ Thế nào là gậy thưởng?
📣 Khi người học hỏi một câu, lời rất thân thiết và khế hợp với Đaọ, Sư liền đánh, gọi là gậy thưởng.
❓ Thế nào là gậy phạt?
📣 Khi người học cùng thầy hỏi đáp, tuỳ ý nói loản, xúc phạm người, Sư liền đánh, gọi là gậy phạt.
❓ Thế nào là gậy tung?
📣 Người học được “một biết nửa hiểu” nói một câu, có một chút tương ưng. Sư liền đánh, gọi là gậy tung.
❓ Thế nào là gậy đoạt?
📣 Người học bị “Tạp độc nhập tâm”, nói câu hợp đầu (có vẻ phù hợp), cho là đắc ý. Sư liền đánh, gọi là gậy đoạt.
❓ Thế nào là gậy ngu si?
📣 Người học chủ khách không phân, tà chánh không rõ, mở miệng nói bướng. Sư liền đánh gọi là gậy ngu si.
❓ Thế nào là gậy hàng ma?
📣 Người học nhận cảnh giới ma, nói lời ma quỷ điên cuồng cho là chứng đạo. Sư liền đánh mạnh, gọi là gậy hàng ma.
❓ Thế nào là gậy tảo tích? (quét dấu vết)
📣 Người học chẳng rơi vào phàm tình mà kẹt vào Thánh giải, chẳng lìa hang ổ. Sư liền đánh gọi là gậy tảo tích.
❓ Thế nào là gậy vô tình?
📣 Nói phải cũng đánh, nói chẳng phải cũng đánh, mở miệng cũng đánh, không mở miệng cũng đánh, tất cả đều chẳng còn, gọi là gậy vô tình.
❓ Dưới gậy chuyển thân được đạo lý gì?
📣 Bữa ngay đầu một gậy toàn thân rơi thoát, ý thức tan tành, chơn thường bày bộ một mình. Hàng lợi cơ thì chuyển thân, kẻ căn độn thì điểm trán. Vừa trải qua sự suy nghĩ liền thành một loạt ma mị.
❓ Thế nào là bốn loại hét? (tứ hát)
📣 Một hét như bảo kiếm vua Kim Cang. Một hét như Sư tử ngồi. Một hét như cây sào dò bóng cỏ. Một hét mà không có công dụng của hét.
❓ Thế nào là bảo kiếm vua Kim Cang?
📣 Hay chém ý thức, tình phàm thánh đều hết, lẽ chơn thường riêng chiếu.
❓ Thế nào là Sư tử ngồi?
📣 Hai kiến chấp đoạn thường cùng tất cả tham lậu. Ngồi rống một tiếng làm cho ngói bể băng tiêu.
❓ Thế nào là cây sào dò bóng cỏ?
📣 Như gương chiếu hình tượng đẹp xấu, chơn ngụy, tự nhiên bày mặt thật.
❓ Thế nào là không công dụng của tiếng hét?
📣 Ý thức vừa khởi động, một tiếng hét làm cho tan nát. Chuyển tìm lại tiếng hét, tiếng hét cũng chẳng dùng.
❓ Dưới tiếng hét lãnh ngộ, được ý chỉ gì?
📣 Ra oai một tiếng chẳng có chẳng không, khởi vốn không khởi, rơi vốn không rơi, hội được như vậy, gượng gọi là chánh giác.
❓ Thế nào là bốn loại chiếu dụng?
📣 Một, trước chiếu sau dụng. Hai, trước dụng sau chiếu. Ba, chiếu dụng đồng thời. Bốn, chiếu dụng chẳng đồng thời.
❓ Thế nào là trước chiếu sau dụng?
📣 Trong tự chứng phần dùng trí ứng vật, dùng trí huệ phân biệt tà chánh. Trước bảo: “Nói mua!” đợi suy nghĩ liền hét.
❓ Thế nào là trước dụng sau chiếu?
📣 Trong tự chứng phần. Trước dùng huệ phân biệt, sau dùng trí dứt hết. Trước dựng một ngón tay. Lại hỏi: Hội không?
❓ Thế nào là chiếu dụng đồng thời?
📣 Trong tự chứng phần, trí chẳng lìa huệ, huệ chẳng lìa trí. Đánh cho một gậy hỏi: Lại biết đau nhức chăng?
❓ Thế nào là chiếu dụng chẳng đồng?
📣 Trong tự chứng phần, trí là trí giám, huệ là huệ dụng. Sự yên lặng giây lâu. Tăng suy nghĩ, Sư bèn về phương trượng.
❓ Thế nào là bốn loại chủ khách?
📣 Một là khách trong khách. Hai là chủ trong khách. Ba là khách trong chủ. Bốn là chủ trong chủ.
❓ Thế nào là khách trong khách?
📣 Hướng vào sự, trái lại với lý, tự mê muội bản chơn.
❓ Thế nào là chủ trong khách?
📣 Sự chẳng lìa lý, nhiệm vận toàn chơn.
❓ Thế nào là khách trong chủ?
📣 Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.
❓ Thế nào là chủ trong chủ?
📣 Lý hay thành sự, chẳng rơi vào thiên không.
❓ Thế nào là chủ trong chủ?
📣 Bỏ sự hướng lý, chỉ nhắm vào bổn chơn.
❓ Thế nào là chủ khách gặp nhau, phân biệt chánh tà?
📣 Thầy cùng người học, thêm một lớp khóa vàng. Người học khen thiện gọi là “khách xem khách”. Nếu làm thầy người mắt mình chẳng trong, bị người hiểu khinh lờn, gọi là “khách xem chủ”, mắt thầy trong sáng hay cướp món ăn của người đói, cùng nhổ gốc bệnh cho người, gọi là “chủ xem khách”. Thầy nghiệm xét người, người học bám cảnh chủ bày vẽ, mà khách bất động, gọi là “chủ xem chủ”.
❓ Thế nào là bốn liệu giảng?
📣 Một là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh. Hai là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn. Ba là nhơn cảnh đoạt cả hai. Bốn là nhơn cảnh đều chẳng đoạt.
❓ Thế nào là đoạt nhơn chẳng đoạt cảnh?
📣 Chỉ tự tâm mình không (rỗng) ngại gì ngoại cảnh? Kẻ hạ căn bực hạ đến, đoạt pháp chẳng đoạt cảnh.
❓ Thế nào là đoạt cảnh chẳng đoạt nhơn?
📣 Chẳng trụ vào cảnh bên ngoài, chỉ tâm chiếu soi một mình. Kẻ hạ căn bậc trung đến, đoạt cảnh chẳng đoạt pháp.
❓ Thế nào là nhơn cảnh đoạt cả hai?
📣 Tâm và cảnh đều không (rỗng), thì vọng từ đâu mà có? Hàng trung căn bực thượng đến, cảnh, pháp, nhơn đều đoạt.
❓ Thế nào là nhơn cảnh đều chẳng đoạt?
📣 Tâm tự trụ tâm, cảnh tự trụ cảnh. Hàng thượng căn bậc thượng đến, cảnh pháp đều chẳng đoạt.
❓ Thế nào câu thứ nhứt tiến được kham cùng Phật, Tổ làm Thầy?
📣 Một niệm chẳng sanh, muôn duyên đều không lặng.
❓ Thế nào là câu thứ hai tiến được kham cùng người trời làm thầy?
📣 Một niệm do duyên mà khởi lên, chẳng tiếp tục hai niệm.
❓ Thế nào là câu thứ ba tiến được tự cứu chẳng xong?
📣 Niệm phân biệt vừa sanh khởi, tánh tròn sáng tự mờ.
❓ Thế nào là đệ nhứt huyền?
📣 Bản tánh không lặng.
❓ Thế nào là đệ nhị huyền?
📣 Chơn trí lặng lẽ mà chiếu soi.
❓ Thế nào là đệ tam huyền?
📣 Diệu dụng không ngại.
❓ Thế nào là thể trung huyền, cú trung huyền, huyền trung huyền?
📣 Thể trung huyền là bản tánh không lặng. Cú trung huyền là trong lời mà không lời. Huyền trung huyền là vượt ngoài mọi suy nghĩ.
❓ Thế nào là đệ nhứt yếu?
📣 Chơn thể dứt tuyệt dấu vết.
❓ Thế nào là đệ nhị yếu?
📣 Dụng lớn khôn ngằn.
❓ Thế nào đệ tam yếu?
📣 Một bên cùng ở giữa đều chẳng lập.
❓ Thế nào là mười trí đồng chơn?
📣 Sư ra oai hét một tiếng, hỏi rằng: “đấy là trí thứ mấy”?
❓ Thế nào là đồng nhứt chất?
📣 Tất cả sum la vạn tượng do sự ấn định của một pháp.
❓ Hai, thế nào là đồng đại sự?
📣 Trong ánh sáng của tịch chiếu không thiếu cũng không thừa.
❓ Ba, thế nào là tổng đồng tham?
📣 Loài hữu tình, loài vô tình đều đồng một pháp giới.
❓ Bốn, thế nào là đồng chơn trí?
📣 Các pháp đều bình đẳng, vật và ngã đều nhất như.
❓ Năm, thế nào là đồng biến phổ?
📣 Lớn thì bao trùm pháp giới, nhỏ thì chẳng chứa mũi kim.
❓ Sáu, thế nào là đồng cụ túc?
📣 Trăm ngàn pháp môn chẳng lìa tấc vuông.
❓ Bảy, thế nào là đồng đắc thất?
📣 Nơi thánh chẳng được, ở phàm chẳng mất.
❓ Tám, thế nào là đồng sanh sát?
📣 Rải ra muôn vật đều phát sanh. Thu vào thì lấp cảnh bít hang.
❓ Chín, thế nào là đồng âm hẩu?
📣 Nói khéo hay nói dụng đều trở về đệ nhứt nghĩa.
❓ Mười, thế nào là đồng đắc nhập?
📣 Muôn pháp nhứt tâm, đồng trở về bất nhị, tiếp theo đó, ngài xè hai tay ra nói: “Một trí nầy cùng cái mâm kia bưng ra”.
❓ Thế nào là đệ nhứt quyết của Phần Dương?
📣 Tánh thể vốn lặng.
❓ Thế nào là đệ nhị quyết?
📣 Trí dụng riêng chiếu.
❓ Thế nào là đệ tam quyết?
📣 Tịch chiếu không hai.
❓ Thế nào là cửu đái của Phù Sơn?
📣 Đái là cột, bó lại, nghĩa là bao gồm.
❓ Thế nào là “Chánh pháp nhãn tạng đái”?
📣 Pháp hội Linh Sơn, Phật chưa nói một chữ, cuối cùng Phật đưa cành hoa, ngài Ca Diếp nhận gánh vác.
❓ Thế nào là “Phật pháp Tạng đái”?
📣 Ba Tạng giáo điển cùng năm Tông phái Thiền đều phát xuất từ nhứt tâm.
❓ Thế nào là lý quán đái?
📣 Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.
❓ Thế nào là lý quán đái?
📣 Không kiếp trở về trước, mượn gọi là chánh vị.
❓ Thế nào là “Sự quán đái”?
📣 Theo dòng đời được lẽ diệu, ứng với muônvật mà được toàn chơn.
❓ Thế nào là “Lý sự tung hoành đái”?
📣 Tùy duyên mà không hề biến đổi, chẳng biến đổi mà tùy duyên.
❓ Thế nào là “Khuất phục thùy đái”?
📣 Chẳng trụ vô vi, chẳng bỏ hết hữu vi. Đi trong phi Đạo, mà thông đạt Phật đạo.
❓ Thế nào là “Diệu hiệp kiêm đái”?
📣 Đại dụng hiện tiền, chẳng câu chấp nơi tiểu tiết, muôn sự muôn vật đều là diệu trí.
❓ Thế nào là “kim châm song tỏa đái”?
📣 Mở mang Phật sự mà chẳng nhờ tạo tác. Bàn tay tín đưa lại, chẳng ràng chẳng buộc.
❓ Thế nào là “Bình hoài thường nhật đái”?
📣 Không thành có thể cầu, không phàm có thể xả. Một tâm thản nhiên lặng lẽ tự hết. Dựng một ngón tay lên nói: “Một đái nầy xem mặt trình nhau”.
2- TÀO ĐỘNG TÔNG
❓ Chủ trương của Tông Đào Động như thế nào?
📣
Tào Động gia phong Đạo khu miên mật Ứng cơ tiếp vật Ngữ kỵ thập thành Kim châm song tỏa Ngọc tuyến ám xuyên Chánh thiên hồi hỗ Ngũ vị công huân Nội ngoại thiệu đẳng Tam chủng sấm lậu Nhứt thiếu sai biệt Bất ly bổn phận.
DỊCH:
Thói nhà Tào Động Then đạo khít khao Ứng cơ tiếp vận Lời kiên mười thành Kim vàng đều khóa Chỉ ngọc thầm may Chánh thiên hồi hỗ Năm vị công huân Trong ngoài tiếp nối Ba loại sấm lậu Hết thảy sai biệt Chẳng lìa bổn phận.
❓ Thế nào là chánh trung thiên?
📣 Lý hay thành sự.
❓ Thế nào là thiên chung chánh?
📣 Sự chẳng lìa lý.
❓ Thế nào là chánh trung lai?
📣 Lý vốn không tịch.
❓ Thế nào là thiên trung chí?
📣 Sự, dụng không dấu vết.
❓ Thế nào là kim trung đáo?
📣 Sự lý đều mất.
❓ Năm vị công huân như thế nào?
📣 Năm vị công huân là: Hướng, phụng, công, cộng công, công công.
❓ Thế nào là Hướng?
📣 Hướng đến việc nầy, không cho gián đoạn.
❓ Thế nào là Phụng?
📣 Như kính bậc trưởng thượng, thừa sự phụng hành không lúc nào dừng.
❓ Thế nào là Công?
📣 Có dụng hay không dụng đều gọi là công huân cả.
❓ Thế nào là Cộng Công?
📣 Khi dụng thì không dụng, không dụng tức là dụng.
❓ Thế nào là Công Công?
📣 Đã không công dụng được đại giải thoát.
❓ Thế nào là chuyển công tựu vị?
📣 Dụng chẳng lìa thể.
❓ Thế nào là chuyển vị tựu công?
📣 Thể hay phát dụng.
❓ Thế nào là Công vị tề thi?
📣 Thể Dụng đều bày.
❓ Thế nào là Công vị câu ẩn ?
📣 Thể dụng đều mất.
❓ Thế nào là “Đản sanh Vương tử” ?
📣 Căn bổn đại trí vốn tự hiện thành.
❓ Thế nào là “Triêu sanh Vương tử” ?
📣 Không nhờ tu chứng, thế nào là về gốc?
❓ Thế nào là “Mạt sanh Vương tử” ?
📣 Có tu có chứng chẳng phạm công huân.
❓ Thế nào là “Hóa sanh Vương tử” ?
📣 Đại dụng hiện tiền ai dám đương đầu?
❓ Thế nào là “Nội sanh vương tử” ?
📣 Đạt bổn hoàn nguyên chơn như pháp giới.
❓ Thế nào gọi là ba thứ đọa?
📣 Một là mang lông đội sừng, gọi là loại đọa. Hai là chẳng đoạn thinh sắc, gọi là tùy đọa. Ba là chẳng thọ thực, gọi tôn quí đọa.
❓ Thế nào là mang lông đội sừng
📣 Chẳng mặc áo bổn lai, cần đi trong dị loại.
❓ Thế nào là chẳng đoạn thinh sắc?
📣 Sáu trần không chán, về đồng chánh giác.
❓ Thế nào là chẳng thọ thực?
📣 Lý còn chẳng giữ việc khác ra gì?
❓ Thế nào gọi là “ba loại sấm lậu” ?
📣 Một là kiến sấm lậu, hai là tình sấm lậu, ba là ngữ sấm lậu
❓ Thế nào là kiến sấm lậu?
📣 Không đổi chánh vị, rơi tại một sắc.
❓ Thế nào là tình sấm lậu?
📣 Mắc kẹt hai bên, sóng thức trôi đi.
❓ Thế nào là ngữ sấm lậu?
📣 Thể diuệu chẳng tròn, thốt ra lời ám muội.
❓ Thế nào là ba đường tiếp người?
📣 Điểu đạo, huyền lồ, triển thủ.
❓ Thế nào là điểu đạo (đường chim) ?
📣 Hư không, không vui không giận.
❓ Thế nào là huyền lộ?
📣 Chữ bát thiếu hai phết. (không chữ)
❓ Thế nào là triển thủ?
📣 Chữ nhứt hai đầu rũ. (thành chữ công)
❓ Thế nào là chánh vị nhứt sắc?
📣 Diệu thể vô hình.
❓ Thế nào là Đại công nhứt sắc?
📣 Dụng lớn không ngằn.
❓ Thế nào là trí công minh vị?
📣 Sóng vốn là nước.
❓ Thế nào là tá vị minh công?
📣 Nước hay dậy sóng.
❓ Thế nào là tá tá bất tá tá?
📣 Sóng và nước chẳng hai.
❓ Thế nào là toàn siêu bất tá tá?
📣 Sóng và nước đều trong lặng.
3- TÔNG VÂN MÔN
❓ Chủ trương của Tông Vân Môn như thế nào?
📣
Vân Môn gia phong Cô nguy tỉnh tuấn Cách ngoại đề tê Tiểu trừ tình kiến. Tm cú quan kiện Nhứt tự cơ phong Bắc đẩu tàng thân Kim phong thể lộ. Trụ trượng bột khiêu Phật tổ thoái hậu. Trản tử thuyết pháp Ma ngoại tìm hình Nhứt thiết ngữ ngôn Tổng qui hướng thượng.
DỊCH:
Thói nhà Vân Môn Cô nguy cao vót Nêu lên dáng ngoài Cắt trừ tình kiến. Ba câu khóa cửa Một chử mũi nhọn Bắc Đẩu ẩn thân Gió vàng thể lộ. Cầm trượng nhảy vọt Phật Tổ lui sau. Trản tử nói pháp Ma ngoại ẩn hình Hết thảy ngôn ngữ Gồm về hướng thượng.
❓ Thế nào là câu “bao trùm càn khôn” (hàm cái càn khôn cú) ?
📣 Bao trùm thái hư, ngang suốt ba mé.
❓ Thế nào là câu “Cắt đứt các dòng” (tiệt đoạn chúng lưu cú) ?
📣 Một niệm chẳng sanh, muôn pháp tự dứt.
❓ Thế nào là câu “theo nước đuổi sóng” (tùy ba trục lãng cú) ?
📣 Theo dòng được diệu, ứng vật toàn chơn.
❓ Thế nào là nhứt tự quan (cửa một chữ) ?
📣 Vượt ngoài sự suy nghĩ, chẳng rơi vào hang ổ.
❓ Thế nào là Tông Đề Bà?
📣 Hiện bày trâu trắng, đông xúc tây chạm.
❓ Thế nào là suy mao kiếm?
📣 Muôn sự muôn vật, ngói bể băng tiêu.
❓ Ý Tổ, ý kinh là đồng hay khác?
📣 Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.
❓ Thế nào là “Bắc đẩu lý tàng thân” ?
📣 Không dấu vết.
❓ Thế nào là “Thể lộ gió vàng” (thể lộ kim phong) ?
📣 Toàn thân hiện.
4- TÔNG QUI NGƯỠNG
❓ Chủ trương Tông Qui Ngưỡng thế nào?
📣
Qui ngưỡng gia phong Cơ dụng viên dung Thết trung nghiệm nhơn Cú năng hãm hổ. Viên tướng sai biệt Minh lai ám hợp Cảnh xuất tam sanh Lưỡng khẩu nhứt thiệt. Phụ tử hòa xướng Đạo truyền thiên cổ.
DỊCH:
Thói nhà Qui Ngưỡng Cơ dụng viên dung Trong thất nghiệm người Câu hay hãm hổ. Tướng tròn sai khác Sáng đến hợp tối Gương hiện ba sanh Một lưỡi hai miệng. Cha con đồng xướng Đạo truyền thiên cổ.
❓ Thế nào gọi là ba loại sanh?
📣 Ba loại sanh là tưởng sanh, tướng sanh và lưu chú sanh.
❓ Thế nào là tưởng sanh?
📣 Ý thức bên trong.
❓ Thế nào là tướng sanh?
📣 TRần cảnh bên ngoài.
❓ Thế nào là lưu chú sanh?
📣 Không gián đoạ.
❓ Sao gọi là mật nghĩa của viên tướng (tướng tròn).
📣 Mật nghĩa của viên tướng có sáu loại: một là viên tướng, hai là ám cơ, ba là nghĩa hải, bốn là tự hải, năm là ý hải, sáu là mặc luận.
❓ Lấy già làm thể?
📣 Vẽ một hình tròn (O) đấy là thể
❓ Lấy gì làm dụng?
📣 Vẽ một hình tròn giữa có một đường thẳng từ trên xuống dưới, đấy là dụng.
❓ Lấy gì làm trí?
📣 Vẽ một hình tròn ở giữa có chữ sơn, đấy là trí.
❓ Trong tướng tròn viết chữ Ngưu, chữ Phật, chữ Nhơn, chữ Tư, chữ Thập,chữ Vạn, một điểm, một nét, bán nguyệt, khuyết nguyệt … chẳng nhứt định, đấy là ý chỉ gì?
📣 Đưa tay tiếp người, nêu rõ hay ngầm, chẳng lìa thể dụng, lý sự chủ khách, sanh sát, buông hay nắm, quyền thật, ẩn hiện, đồng dị, tổng biệt, ngầm ấn bản tâm. Đấy gọi là một nghĩa của Tam muội ẩn thân. Phải là người thật tỏ ngộ mới hiểu suốt được cơ nầy. Bọn môn đồ của nghĩa giải khó hiểu được liền.
❓ Thế nào là “mở mắt ngước nhìn” (bình phục mục ngưỡng thị)?
📣 Chạm chẳng được mà trái chẳng xong.
❓ Thế nào là một lưỡi hai miệng?
📣 Chẳng được có lời cũng chẳng được không lời.
❓ Thế nào là trước nhiên đăng (nhiên đăng tiền)?
📣 Thể tịch.
❓ Thế nào là chánh nhiên đăng?
📣 Tịch chiếu (lặng lẽ và chiếu soi).
5- TÔNG PHÁP NHÃN
❓ Chủ trương của Tông Pháp Nhãn thế nào?
📣
Pháp Nhãn gia phong Đối chứng thí dược Thùy cơ tốc lợi Tảo trừ tình giải. Lục tướng nghĩa môn Hội qui tánh địa Vạn tượng chi trung Toàn thân độc lộ. Tam giới duy tâm Vạn pháp duy thức Trực siêu dị kiến Viên dung chơn tế.
DỊCH:
Thói nhà Pháp Nhãn, Đối bịnh cho thuốc Phương tiện bén nhạy Quét sạch tình giải. Sáu tướng nghĩa môn Gom về tánh địa Ở trong muôn tượng Toàn thân một đường. Ba cõi duy tâm Muôn pháp duy thức Vượt thẳng dị kiến Chan hòa chơn tế.
❓ Thế nào là sáu tướng nghĩa?
📣 Sáu tướng nghĩa là: Tổng, biệt, đồng, dị, thành, hoại.
❓ Thế nào là Tổng?
📣 Nhứt tâm chơn như gồm nhiếp các pháp.
❓ Thế nào là biệt?
📣 Tâm sanh các pháp, nhưng các pháp không phải một.
❓ Thế nào là đồng?
📣 Pháp do tâm sanh, tâm pháp không hai.
❓ Thế nào là dị?
📣 Pháp là pháp tướng, tâm là tâm lý.
❓ Thế nào là thành?
📣 Tâm sanh các pháp, pháp hay thành sự.
❓ Thế nào là hoại?
📣 Gom pháp về tâm, tâm không (rỗng) pháp mật.
❓ Tứ liệu giản của Thiều Quốc Sư như thế nào?
📣 Tứ liệu giản của Thiểu Quốc Sư là: Văn văn, văn bất văn, bất văn văn, bất văn bất văn.
❓ Thế nào là văn văn?
📣 Lặng lẽ (tịch) nhưng mà thường hay chiếu soi (chiếu).
❓ Thế nào là văn bất văn ?
📣 Chiếu soi nhưng mà thường lặng lẽ.
❓ Thế nào là bất văn văn?
📣 Tịch chiếu không hai.
❓ Thế nào là bất văn bất văn?
📣 Tịch chiếu đều mất.
Sư nói thâm: Giáo ngoại biệt truyền, Tông chỉ hướng thượng, quả như vậy ư? Nếu chỉ như thế có thể gọi là khẩu truyền, có gì kỳ đặc? Còn nếu chẳng như thế lại làm sao sanh? Hãy tham!
CHƯƠNG VIII -12 MA LÀM LOẠN CHÁNH ĐỊNH 🔗
Sư nói: Ngộ đạo tu thiền chẳng phải là việc nhỏ. Những loại ma trong, ma ngoài làm não loạn chánh định, một chút không chủ tể, liền tham trước cảnh ái, do cảnh kích động mà rơi vào lưới ma. Vốn là nhơn lành mà trở lại phải chuốc quả ác. Kẻ sơ học đời sau hãy cẩn thận và đề phòng vậy.
Tôi xin nêu ra mười điều đã biện biệt về nghĩa ma. Tự soi tự xét về thiên ma và tâm ma. Dùng huệ quán chiếu tiêu diệt ma nghiệp. Tâm cấu nếu tịnh các chướng tự nhiên dứt, sợ gì thiên ma nào dám loạn chánh? Nay đem mười loại ma và thuật rõ ràng ở sau: một là ma túc oan, hai là ma ngoại hoặc, ba là ma phiền não, bốn là ma sở tri, năm là ma tà kiến, sáu là ma vọng tưởng, bảy là ma khẩu nghiệp, tám là ma bịnh khổ, chín là ma hôn trầm, mười là thiên ma. Mười loại ma chướng nầy hay làm nhiễu loạn người tu hành chơn chánh. Người ngộ đạo nên thận trọng đó.
❓ Thế nào là ma túc oan?
📣 Ma túc oan gọi là nghiệp chướng. Từ những kiếp lâu xa cho đến đời nầy, sanh ra trong kiếp phàm phu, bất trung bất hiếu, bất nhơn bất nghĩa. Sát sanh trộm cắp, dâm dục, vọng ngữ, tham lam, giận dữ và si ái. Kết nhiều oan gia, ngày nay gặp gỡ, muốn học đạo lớn bị chúng xâm nhiễu chẳng an, hay làm chướng việc thánh, chẳng được thành tựu. Phải sanh tâm quý chí thành sám hối, tha thiết cầu tam bảo buông sức thần gia hộ. Tất cả những nghiệp từ trước tự tiêu tự diệt, tất cả oan gia tự lui hay tan mất, mau được vô lậu, chóng làm lợi khắp chúng sanh, mau được vô lậu, chóng chứng bồ đề. Người tham thiền phải tự sám hối đó.
❓ Thế nào là ma ngoại hoặc?
📣 Ma ngoại hoặc (làm ngoại hoậc bên ngoài), gọi là nhơn chướng. Kẻ tiểu nhơn không có căn lành, sang hèn chẳng đồng, làm não loạn định tâm chẳng được an ổn. Việc nầy không riêng một cớ nào, tất cả đều do thiếu quyền biến, hoặc kém lễ nghi, hoặc do tự cao, hoặc tự ngã mạn, hoặc nói thẳng, hoặc hạnh thô, hoặc nương thế lực, hoặc khoe tài, hoặc nói ác, hoặc khen mình,hoặc chê người, hoặc thiếu vẻ ôn hoà, hoặc không cung kính, hoặc độ lượng không rộng rãi, hoặc thiếu nhẫn nại. Cho nên chuốc cái chẳng tin mà hoặc loạn sự tu hành, sanh tâm động niệm, che lấp cái bản minh. Kẻ sĩ một đạo cần yếu phải thấp xuống mà lui về nuôi đức, mới khỏi được nhơn chướng. Kẻ hậu học đời sau phải khoan tâm và nhẫn nại đó.
❓ Thế nào gọi là ma phiền não?
📣 Ma phiền não là sự chướng. Sự chướng nếu chẳng trừ hay làm lộn xộn việc chánh tu. Thế nào là phiền ? Thế nào là não ?
Phiền thì đuổi theo ngoại cảnh, não thì sanh ở nội tâm. Người tu thiền nhứt định phải đoạn phiền não. Phiền não chẳng trừ sạch tánh định khó hiện. Thấy người nữ mà sanh tâm là dâm tâm phiền não. Thấy sự giết hại mà sanh tâm là ác tâm phiền não. Thấy tài lợi mà sanh tâm là đạo tâm (tâm trộm) phiền não. Thấy vật mà sanh tâm là tham tâm phiền não. Thấy người sanh khinh thường là ngã tướng phiền não. Thấy kẻ thấp sanh kiêu ngạo là tự đại phiền não. Thấy nghịch cảnh sanh sân là khuể tâm phiền não. Thấy thuận cảnh sanh vui là tùy hỷ phiền não. Thấy kẻ oán sanh tâm ghét là hận tâm phiền não. Thấy người thân sanh thương là tư tâm phiền não. Tất cả những cái thấy bên ngoài mà bên trong sanh thủ xả đều là phiền não, không thể nào mà nói ra cho hết được. Kẻ tham thiền nhất định phải trừ sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không (rỗng) làm não loạn chánh định. Người học đời sau, tại sao chẳng đoạn nó ?
❓ Thế nào gọi là ma sở trị?
📣 Ma sở trị gọi là lý chướng, lý chướng nếu chẳng trừ hay làm loạn chánh định. Sở tri là thế nào mà lỗi như thế? Biết (tri) ta được ngộ, biết ta thông thiền, biết ta rõ giáo, biết ta hội lý, biết ta học nhiều, biết ta hiểu nhiều, biết ta trì giới nghiêm túc, biết ta được định, biết ta phát huệ, biết ta được thần thông, biết ta được lẽ mầu, biết ta chứng đạo, biết ta thành Phật, muôn ngàn điều biết (Sở tri) gọi đó là lý chướng. Lý chướng nếu chẳng trừ pháp chấp chẳng quên. Pháp chấp chẳng quên thì chơn tâm chẳng hiện. Người tu thiền định nhứt định phải dứt trừ lý chướng.
❓ Thế nào là ma tà kiến?
📣 Ma tà kiến là chấp chướng. Chấp chướng chẳng trừ ắt rơi vào định tà. Tà kiến như thế nào mà loạn chánh định như vậy? Chấp tánh chẳng hoại, gọi sự chấp ấy là hữu kiến (thấy có). Chấp tánh vốn không (rỗng) gọi sự chấp ấy là vô kiến (chấp không). Chấp vốn không chết gọi sự chấp ấy là thường kiến. Chấp theo khí mà diệt gọi sự chấp ấy là đoạn kiến. Chấp từ không sanh ra có là tự nhiên kiến. Chấp từ khí (hơi) hóa ra hình là tà nhơn kiến. Tự như chẳng có chẳng không, tức có tức không. Tất cả những tà chấp, tà kiến nhơn duyên tự nhiên… đều chẳng lìa không hữu, đoạn thường hai đầu. Tự chướng bốn lý đến rơi vào đường tẻ. Người tham thiền phải biết mà ngộ lẽ nầy.
❓ Thế nào là ma vọng tưởng?
📣 Ma vọng tưởng gọi là Tự chướng. Tự chướng chẳng không (rỗng), thì sanh diệt chẳng dừng, điên đảo tán loạn, che chướng bản tâm. Người tham thiền cần phải làm cho rỗng không cái chướng nầy. Nay nêu ra một hai điều để làm sáng tỏ cái vọng chướng, như: vọng tưởng ngộ đạo, vọng tưởng tu chứng, vọng tưởng đắc định, vọng tưởng phát huệ, vọng tưởng nhiều hiểu biết, vọng tưởng hay làm văn, vọng tưởng về danh đạt, vọng tưởng về sự cúng dường nhiều, vọng tưởng làm thầy, vọng tưởng chư tăng qui hướng, vọng tưởng tiếp nối tổ vị, vọng tưởng trụ một ngôi chùa, vọng tưởng hoằng đạo, vọng tưởng về tác phẩm lưu truyền, vọng tưởng về kẻ nối dòng, vọng tưởng về sự nhập tháp, vọng tưởng thần thông, vọng tưởng huyền diệu, vọng tưởng kỳ đặc, vọng tưởng quái lạ, vọng tưởng trường sanh, vọng tưởng hoàn đồng, vọng tưởng bay lên, vọng tưởng thành Phật,… các vọng chẳng không (rỗng), động niệm làm trái với lẽ nhơn. Người mới học mộ đạo dứt vọng làm gốc.
❓ Thế nào là ma khẩu nghiệp?
📣 Ma khẩu nghiệp gọi là cuồng chướng, nếu chẳng dè dặt lời nói mà buông ý lắm mồm, thì tán tâm loạn niệm chẳng được tịnh tâm. Khẩu nghiệp do đâu mà lỗi nó quá nhiều? Bởi ưa bàn huyền nói diệu, giảng giải (kinh), nói tông (thiền), tự khoe rằng đã được ngộ, chê kẻ khác ngu mê, luận về sở trường sở đoản của người, nói sự phải quấy của người.ngâm thi vịnh phú, mở miệng xướng càn, bình luận chuyện xưa nay, bàn chuyện đất nước hưng phế, xưa kia là người hiền kẻ ngu, nay là kẻ ác người thiện. Chẳng quan hệ đến việc ta mà rống lời tranh luận chuyện được mất của người. Vô cớ chê khen, nói những cảnh dục khiến người sanh yêu. Nói chuyện bất bình khiến người sanh giận. Chê sau lưng, khen trước mặt. Tất cả những lời nói lợi hại khiến người quên mất chánh niệm. Người tham thiền cần yếu phải gắng gìn giữ, chẳng những ít lời nuôi đức mà lại khiến tâm chẳng loạn. Kẻ sơ cơ tu hành cẩn thận và kiêng giữ việc nầy.
❓ Thế nào là ma bệnh khổ?
📣 Ma bệnh khổ gọi là khổ chướng. Thân nhiều tật bệnh đều do nghiệp đời trước, hoặc do mất sự điều hoà mà biến sanh trăm thứ bệnh, chẳng được thọ dụng, làm cho người học đạo có sự chướng ngại. Nay tôi nêu lên mấy điều phải tự đề phòng: Điều hoà tỳ vị, tiết chế và chọn thức ăn uống, ít đắm mùi vị nồng hậu, lại phải cữ vật sống và lạnh. Khi đói chớ đọc tụng, lúc no chớ gánh vác nặng. Sau khi ăn chớ ngủ, tối cữ ăn no, thích ăn đồ thối nát, ưa ăn đồ chiên đồ xào, thích ăn ngũ vị, dùng nhiều vật quấy. Toạ Thiền nơi đất ẩm, ngủ nơi chỗ gió, đang ra mồ hôi mà nhảy vào nước, thích ấm tham mát, đang lúc gió mà tắm rửa, nằm trần ngoài trời, đói quá no quá, vui quá giận quá, lạnh quá nóng quá, mưa lớn sương nhiều. Bịnh nội thương ngoại cảm, tất cả đều do mất sự điều hoà nên sanh những bệnh hoạn, làm cho thân chẳng được yên. Kẻ hậu học phải biết mà dự phòng và tránh bệnh.
❓ Thế nào là ma hôn trầm?
📣 Ma hôn trầm gọi là thuỳ chướng (chướng về ngủ). Thuỳ chướng chẳng luyện trừ, hôn trầm quá nặng, chơn tâm chẳng sáng, huệ tánh chẳng phát khởi, rơi vào chỗ mờ tối của núi đen và hang ma. Nguyên nhơn của bệnh hôn trầm kia như thế nào? Sự hôn chướng nầy phần lớn cho ăn nhiều, tham nhiều vị ngon, nói nhiều làm tán khí, hình lao tì yếu, tinh thần chẳng trong lặng, độc khí hỗn loạn, ngu si nhiều giận tức, lười biếng buông lung. Chẳng nhớ nghĩ việc sanh tử chỉ tham an lạc. Kẻ hậu học khi dụng công nên phát tinh tấn: mang dùi chích thịt, cho đầu chạm vào cây cột, lễ Phật đốt đèn, đứng nơi nguy hiểm, đi kinh hành, khổ thân mài luyện ma ngủ mới nhẹ, nếu chẳng như vậy mặc tình ngủ nghỉ, thì chơn tâm chẳng sáng. Người tham thiền nên dũng mãnh hàng phục ma ngủ.
❓ Thế nào là đại thiên ma?
📣 Đại thiên ma chẳng đồng với các chướng. Bởi do tu hành đúng đắn, sắp chứng đạo quả, tâm tinh thuần thông suốt, lặng yên chẳng động, làm kinh động thiên ma và cung điện của quỉ thần đều sụp đổ, cõi đất rung động, ma chúa kinh hãi, loài yêu quái ở cây, ở đá cũng hoảng sợ. Tất cả loài ma mị đều có ngũ thông đồng đến não loạn, chẳng cho người vào thánh vị. Chúng biến ra những điều quái lạ, hoá ra những cảnh dục để làm loạn thiền định của người tu. Người tu nếu tâm sanh ra thủ xả ma liền được tiện lợi, mà người tu thì thọ hại. Tự phát điên cuồng, cho là đã thành Phật. Còn sống thì bị hãm vào nạn vua, lúc chết đoạ vào vô gián ngục. Kẻ sĩ tham thiền chánh niệm rõ ràng, trí huệ chiếu sáng, một lòng chẳng động, mặc tình chúng tác quái ta chẳng thèm thấy nghe, dùng chánh định hàng phục, ma tự nhiên tiêu diệt. Kẻ tu học đời sau phải cẩn thận và tự phân biệt cho rành rõ ma sự nầy.
Ở trên đã được nên lên mấy điều ma sự, nếu muốn hiểu cho khúc chiết rõ ràng, nên xem kinh Lăng Nghiêm nói về ma nghiệt trong ngoài. Tất cả những dị kiến, mỗi mỗi đều rõ ràng, khi hạ thủ dụng công chẳng rơi vào lưới ma, mà chứng thẳng quả Phật.
CHƯƠNG IX - DẪN CHỨNG LỜI KINH 🔗
Muôn pháp về tâm hỏi đáp rõ ràng. Bậc thượng căn vừa xem qua liền ngộ bản tâm, kẻ trung hạ căn ngu độn nghi ngờ bài báng chẳng tin, nên dẫn lời kinh của Phật để chứng minh hầu đoạn trừ những nghi hoặc, tin một cách thành thật chẳng lầm. Hoặc có người được ngộ, y lời dạy mà vâng làm, vào thẳng tòng lâm của Cổ phật, vượt ngang qua bờ cõi then chốt của Tổ Sư. Có thể bảo ngay nơi nhục nhãn mà viên thông Phật nhãn, ngay nơi tâm phàm mà hiển chơn tâm. Nay thuật lời trong kinh Phật và lời của Tổ sư để ấn chứng chánh lý qui tâm.
TRÍCH TÙ CÁC KINH
📒 Kinh Bát Nhã nói:
Hết thảy chư Phật đồng ở một chỗ, gom về cảnh giới vô lậu và tự tánh thanh tịnh
📒 Kinh Hoa Nghiêm nói:
Lời lẽ thuyết pháp (của Như Lai), kẻ tiểu trí vọng phân biệt, nên sanh chướng ngại, chẳng rõ ở tự tâm. Không rõ tự tâm làm sao biết chánh đạo? Kẻ kia dùng tư tưởng điên đảo nên tăng trưởng tất cả điều ác
📒 Kinh Lăng Già nói:
Đệ nhất nghĩa đế chỉ là tâm. Vô vàn tướng bên ngoài, tất cả đều không có. Kẻ phu kia chấp trước vào ác kiến, khi dối tự tha, không thấy rõ được chỗ trụ như thật của hết thảy các pháp. Đại Huệ! Hết thảy các pháp như thật, ấy nghĩa là hay liễu đạt lý duy tâm sở hiện
📒 Kinh Tứ Thập Nhị Chương nói:
Người xuất gia làm sa môn, (phải) đoạn dứt ham muốn, khử trừ khát ái, biết được nguồn tâm của mình, đạt được lý gốc của Phật, ngộ pháp vô vi, bên trong không sở đắc, bên ngoài không sở cầu, tâm không hạn cuộc nơi đạo, cũng không tạo nghiệp, vô niệm vô tác, phi tu, phi chứng, phải trải qua các ngôi thứ mà tự cao tột. Đó gọi là Đạo!
📒 Kinh Bảo Vân nói:
Hết thảy các pháp, tâm là trên hết. Nếu biết tâm thì có thể biết được tất cả các pháp
📜 Bài kệ trong Kinh Nhơn Quả nói:
Tạo tất cả thiện ác
đều từ tâm tưởng sanh
Cho nên người xuất gia chơn chánh
đều lấy sự minh tâm làm gốc
📒 Kinh Niệm Phật Tam Muội nói:
Tâm như kim cang, với ngừoi thiệncăn hay xuyên thấu tất cả pháp. Tâm như áo Ca lân đề, với người thiện căn hay mềm dẻo. Tâm như bể cả, với người thiện căn hay nhiếp các giới tu. Tâm như đá bằng phẳng, với người thiện căn hay đứng giữ tất cả sự nghiệp. Tâm như núi chúa, với người thiện căn hay phát sanh tất cả pháp lành. Tâm như cõi đất, với người thiện căn hay gánh vác và gìn giữ sự nghiệp cho chúng sanh
📒 Kinh Định Ý nói:
Trong thiền định chẳng dính mắc trong ngoài, cũng không ở giữa, đó gọi là nhứt tâm
📒 Kinh Bảo Khiếp nói:
Văn Thù sư lợi bảo Xá lợi Phất rằng như hoả tai cháy mạnh trong hằng sa kiếp, rốt lại cũng không đốt được hư không. Xá Lợi Phất! Cũng như vậy, mỗi mỗi chúng sanh tạo tội ngũ nghịch, cùng nghiệp chẳng lành trong hằng sa kiếp, nhưng mà tâm tánh họ rốt lại cũng chẳng thể nhơ
📜 Bài kệ trong Kinh Đại Hư Không Yạng Bồ tát Sở vấn nói:
Hư không lìa sanh diệt Pháp giới không tới lui Các pháp nương tâm mà trụ. Trong không, không có sắc phi sắc Tâm tánh cũng như vậy Hư không chỉ giả danh Tâm ý thức cũng như vậy.
📜 Bài kệ Kinh Lăng Già nói:
Các pháp không pháp thể Mà nói chỉ là tâm Chẳng thấy dược tự tâm Mà khởi ra phân biệt.
📒 Kinh Xuất Diệu nói:
Người thân mặc giáp giới luật, mà tâm không có gươm trí huệ, thì không làm tan hoại được bọn đầu sỏ kiết sử. Cho nên biết, nếu chẳng quán tâm cho diệu huệ thành tựu, thì không thể chặt đứt được căn bản vô minh
📒 Kinh Niết Bàn nói:
Sư tử rống ấy là nói một cách quyết định rằng tất cả chúng sanh dều có Phật tánh. Nếu biết tự tâm mình Phật tánh đầy đủ, thì ngoài tánh lại có pháp đáng cầu ư?
📒 Kinh Pháp Hoa Tam Muội nói:
Không dính mắc, không chỗ nương, không hệ luỵ vào tâm tịch diệt, ban tánh như hư không. Đó gọi là vô thượng đạo
KỆ CỦA BẢY ĐỨC PHẬT
📜 Bài kệ của Phật Tỳ Bà Thi nói:
Thân từ trong vô tướng thọ sanh, Dụ như huyễn, xuất các hình tượng. Người huyễn, tâm thức xưa nay không, Tội phước đều không, không chỗ trụ.
📜 Bài kệ của Phật Thi Khí nói:
Tạo các pháp lành vốn là huyễn, Tạo các nghiệp ác cũng là huyễn. Thân như hòn bọt tâm như gió, Huyễn hiện không nguồn, không thật tánh.
📜 Bài kệ của Phật Tỳ Xá Phù nói:
Vay mượn bốn đại ngỡ là thân, Tâm vốn không sanh nhơn cảnh có. Cảnh trước nếu không tâm cũng không. Tâm như huyễn khởi rồi diệt.
📜 Bài kệ của Phật Câu Lưu Tôn nói:
Thấy thân không thật là Phật thấy Rõ tâm như huyễn là Phật rõ. Rõ được thân tâm bản tánh không. Người nầy cùng Phật có khác gì?
📜 Bài kệ của Phật Câu Na Hàm Mâu Ni nói:
Phật chẳng thấy thân biết là Phật. Nếu thật có biết riêngkhông Phật. Người trí hay biết tội tánh không, Thản nhiên chẳng sợ việc sanh tử.
📜 Bài kệ của Phật Ca Diếp nói:
Hết thảy chúng sanh tánh thanh tịnh, Từ xưa không sanh không thể diệt. Ngay thân tâm nầy là huyễn sanh. Trong huyễn hoá không tội, không phước.
📜 Bài kệ của Phật Thích ca Mâu ni nói:
Huyễn hoá không nhơn cũng không sanh, Đều là tự nhiên thấy như vậy. Các pháp thảy đều tự hoá sanh, Huyễn hoá không sanh, không chỗ sợ.
LỜI CHƯ TỔ
📃 Bài kệ của sơ Tổ Bồ đề đạt ma nói:
Chớ thấy ác mà sanh chán, Chớ thấy thiện mà sanh ưa, Chẳng bỏ trí mà gần ngu, Chẳng lbỏ mê mà đốn ngộ. Đạt đạo lớn chừ quá lượng, Thông Phật tâm chừ vô số, Chẳng cùng phàm thánh đồng vai, Siêu nhiên gọi đó là TỔ.
📃 Nhị Tổ nói:
“Tâm nầy là Phật, tâm nầy là pháp, pháp và Phật không hai. Tăng bảo cũng vậy”.
📃 Tam Tổ nói: “Mắt nếu chẳng ngủ các mộng tự trừ. Tâm nếu không khác muôn pháp nhứt như. Nhứt như thể mầu, như vậy quên duyên, muôn pháp đều thấy, trở về tự nhiên”.
📃 Tứ Tổ nói với Ngưu đầu Pháp Dung rằng: “Trăm ngàn cửa diệu đồng về gang tấc, hằng sa công đức gom ở nguồn tâm. Tất cả định môn, huệ môn và hạnh môn đều đầy đủ, thần thông diệu dụng đều ở nơi tâm ông”.
📃 Ngũ Tổ nói: “Muốn biết pháp yếu, tâm là căn bản của mười hai bộ kinh. Chỉ có pháp nhứt thừa, pháp nhứt thừa là nhứt tâm vậy. Chỉ giữ nhứt tâm tức là tâm chơn như môn. Hết thảy các pháp chẳng ra ngoài tự tâm, chỉ tự tâm biết tâm không hình sắc. Chư Tổ chỉ lấy tâm truyền tâm, bậc liễu đạt ấn khả, không pháp gì riêng”.
📃 Lục Tổ nói: “Hết thảy các ngươi tự tâm là Phật, chớ có hồ nghi. Ngoài tâm không có một pháp có thể dựng lập, đều là tự tâm sanh muốn thứ pháp. Kinh nói: “Tâm sanh muôn ngàn pháp sanh”. Pháp kia không hai, tâm kia cũng vậy. Đạo kia thanh tịnh không có các tướng. Ông chớ quán thanh tịnh và không (rỗng) tâm kia Tâm nầy không hai, không thể thủ xả, đi đứng nằm ngồi đều một trực tâm tức là tịnh độ. Y lời nói ta nhứt định ông sẽ được bồ đề”.
TUYỆT QUÁN LUẬN CỦA ĐẠI SƯ NGƯU ĐẦU PHÁP DUNG
❓ Thế nào là tâm?
📣 Chỗ quan sát của sáu căn đều là tâm.
❓ Tâm chỗ nào?
📣 Tâm ngay chỗ diệt.
❓ Gì là thể?
📣 Tâm là thể.
❓ Gì là Tông (chủ)?
📣 Tâm là Tông.
❓ Gì là gốc?
📣 Tâm là gốc.
❓ Thế nào là định huệ đồng vui?
📣 Tâm tánh lặng lẽ là định, thường hiểu rõ cái lặng lẽ ấy là Huệ.
❓ Gì là trí?
📣 Cảnh dấy lên mà hiểu rõ là trí.
❓ Gì là cảnh?
📣 Tự thân tâm tánh là cảnh.
❓ Gì là thư (rải ra)?
📣 Dụng chiếu soi là thư.
❓ Gì là quyện (cuốn lại)?
📣 Tâm lặng lẽ không đến đi là quyện. Rải ra thì đầy khắp pháp giới, cuốn lại thì dấu vết khó tìm.
❓ Gì là pháp giới?
📣 Không bờ mé để chỉ bày được gọi là pháp giới.
📃 Thiền sư Trù nói:
Hết thảy duyên bên ngoài gọi là tướng định, sự phải quấy sanh diệt, tất cả đều do tự tâm. Nếu tự tâm mà vô tâm ai ngại gì phải quấy? Năng sở đều không, tức các tướng đều lặng
📃 Bài kệ của Bàng Cư Sĩ nói:
Muôn pháp từ tâm khởi, Tâm sanh muôn pháp sanh. Sanh sanh chẳng rõ có, Tới lui uổng tu hành. Nhắn gửi người tu đạo. Không sanh, có chẳng sanh. Nếu hay đạt lý nầy, Chẳng động, thoát hầm sâu.
📃 Bài ca của Hòa Thượng Đằng Đằng:
Tu đạo, đạo không thể tu, Hỏi pháp, pháp không thể hỏi. Người mê không ngộ sắc không, Kẻ đạt vốn không nghịch thuận. Tám muôn bốn ngàn pháp môn, Rốt lý chẳng hơn gang tấc. Phiền não chính là Bồ đề, Hoa sạch sanh nơi bùn nhớp… Chớ dối, chơi châu huyện khác.
📃 Thiền sư Ngọa Luân nói:
Thấu đáo được tâm tánh kia trạm nhiên rỗng suốt, xưa nay chẳng sanh, cũng chẳng diệt, nào phải gom ép. Chỉ biết tâm khởi vọng, tức là phải hướng nơi phản chiếu lại nguồn tâm, không có gốc rễ tức là chỗ vô sanh. Vì vô sanh nên tâm tịch tĩnh vô tướng vô vi
📃 Bài tụng của thiền sư Trí Đạt nói:
Cảnh lập, tâm liền có, Tâm không, cảnh chẳng sanh. Nếu đem tâm cột cảnh, Tâm cảnh cả đều mà, Cảnh tâm mỗi tự dừng, Tâm cảnh tánh thường trong. Ngộ cảnh tâm không khởi, Mê tâm cảnh đồng hành, Nếu mê tâm tạo cảnh, Tâm cảnh loạn tung hoành, Ngộ cảnh tâm vốn tịnh, Biết tâm cảnh vốn trong. Biết tâm không cảnh tánh, Rõ cảnh tâm không hình. Cảnh rỗng tâm lặng lẽ, Tâm chiếu cảnh im lìm.
📃 Đại sư Phổ Ngạn nói: “Đại đạo rộng lớn, chỉ một chơn tâm. Thiện ác chớ nghĩ thần trong, vật hiện, lại có lo gì?”.
📃 Hòa Thượng Qui Sơn nói: “Các pháp trong ngoài đều chẳng thật, từ tâm hóa sanh, tất cả đều giả danh. Mặc tình pháp tánh châu lưu (trôi khắp), chớ đoạn cũng chớ tiếp tục”.
📃 Hòa thượng Hoàng Bá nói: “Chỉ ngộ nhứt tâm lại không một pháp nhỏ có thể được. Đây tứ là chơn Phật. Phật cùng chúng sanh một tâm không khác. Chẳng bằng ngay nơi lời tự nhận giữ cái bổn pháp. Pháp nầy tức là tâm, ngoài tâm không pháp. Tâm nầy tức là pháp, ngoài pháp không tâm”.
📃 Hòa thượng Ngưỡng Sơn nói: “Đốn ngộ tự tâm không tướng, dụ như hư không. Nương nơi căn mà phát minh, tức là bản tâm đủ hằng sa diệu dụng, không có chỗ gìn giữ riêng, không có chỗ an lập riêng, tức là quê nhà, tức là nước nhà”.
📃 Hòa thượng An Quốc nói: “Kinh nói nên không có chỗ trụ mà sanh tâm. Không chỗ trụ ấy là chẳng trụ sắc, chẳng trụ thinh, chẳng trụ mê, chẳng trụ ngộ, chẳng trụ thể, chẳng trụ dụng. “Mà sanh tâm” ấy tức là tất cả chỗ mà hiển nhứt tâm. Nếu trụ vào thiện mà sanh tâm tức là điều thiện hiện. Nếu trụ vào ác mà sanh tâm tức là đều ác hiện, vậy thì bổn tâm liền ẩn mất. Nếu không chỗ trụ thì mười phương thế giới chỉ một tâm. Tin biết gió phan chẳng động, tâm ấy động”.
📃 Hòa thượng Qui Tông nói: “Ngay tâm nầy là Phật, tột đáy chỉ có tánh. Sơn hà đại địa một pháp ấn định, là thần chú lớn chơn thật không dối, là bản nguyên của chư Phật, là cội gốc và là xương tủy của bồ đề. Phật thế nào mới phải? – Ngay lời nói nầy là phải, lại không người khác. Kinh nói: “Ví như một hình sắc tùy theo cái nhìn của chúng sanh mà có muôn ngàn tên. Tất cả pháp chỉ là một pháp, tùy chỗ mà mang tên”.
📃 Bài kệ trong Luận Bảo Tánh nói:
Như hư không biến khắp cả, Mà hư không chẳng phân biệt. Tự tâm và vô cấu tâm, Cũng không phân biệt cùng khắp.
📃 Pháp sư Phục Lễ nói: “Xét về ý nghĩa của nghiệp, thì nghiệp do tâm khởi, tâm là dụng của nghiệp, nghiệp dẫn tâm thọ sanh, tâm theo nghiệp tạo cảnh. Vậy thì nhơn nghiệp mà thọ thân, thân trở lại tạo nghiệp. Từ tâm tạo cảnh, cảnh lại sanh tâm. Như bóng theo hình mà ngay hay cong, như vang theo tiếng mà có lớn hay nhỏ”.
CHƯƠNG X - KHUYÊN IN BỐ THÍ 🔗
Sự phu diễn chánh pháp công đức vượt hơn hằng sa. Lưu truyền chí lý, phúc lợi hơn hư không lớn. Hằng sa vô số, hư không lớn vô ngần. Việc lợi sanh thí pháp công đức vượt hơn hai thí dụ nầy – Cớ sao công đức vô lượng như vậy? – Một là làm cho người chưa tin trở thành chánh tín, nhiếp về một niệm chẳng dong ruổi tìm cầu bên ngoài. Hai là khiến người đã tin giúp thành quán lực, lý và hạnh kiên cố, mau chứng bồ đề, giống như đi xe rộng lớn. Dựng lập Bảo Phường (tàng kinh các). Như đi thuyền chắc chắn đến bờ giác.
Kinh Lăng Nghiêm nói: “Phật bảo A Nan! Nếu lại có người mang bảy báu chứa đầy cả mười phương hư không, đem dâng cho chư Phật như vi trần, và thừa sự cúng dường mà tâm không chút sơ sót, ý ông nghĩ sao? Người nầy dùng nhơn duyên bố thí cho chư Phật như vậy được phước nhiều chăng?”
A Nan đáp: Hư không vô tận, trân bảo vô ngằn. xưa có chúng sanh thí Phật bảy quan tiền, khi xả thân còn được làm vị chuyển luân vương. Huống lại hiện tại, hư không vô cùng, Phật độ đầy khắp mà đều thí trân bảo, thì cùng kiếp nghĩ bàn cũng không hết được cái phước của người nầy, rằng sao lại có bờ mé?
Phật bảo A Nan! Chư Phật Như Lai, nói không hư dối. Nếu lại có người thân tạo đủ bốn trọng tội và mười ba la di tội, chỉ trong chớp mắt liền trải qua địa ngục A Tỳ ở phương nầy hay phương khác, cho đến địa ngục vô gián khắp mười phương đều trải qua. Nếu người nầy chỉ khởi một niệm rằng “đem pháp môn nầy khai thị cho chúng sanh ở mạt kiếp”, thì tội chướng người nầy liền theo niệm ấy mà tiêu diệt. Biến địa ngục khổ mà họ đã thọ thành nước an lạc, được phước còn hơn người bố thí bảy báu trước gắp trăm, ngàn, muôn ức, như vậy cho đến tính, đếm, thí dụ không thể kịp. Tán thán và hoằng dương kinh nầy lợi ích không ngằn”.
Kinh Kim Quang Minh nói: “Thí pháp cho người có năm điều lợi ích thù thắng. Những gì là năm? Một là pháp thí gồm lợi, tài thí không bằng. Hai là pháp thí hay làm cho chúng sanh ra khỏi ba cõi, còn phước của tài thí chẳng ra khỏi dục giới. Ba là pháp thí hay tịnh pháp thân, còn tài thí của tăng trưởng nơi sắc. Bốn là pháp thí vô tận, còn tài thí có chừng. Năm là pháp thí hay đoạn được vô minh, còn tài thí chỉ đè được tham ái. Cho nên, nầy thiện nam tử! Công đức vô lượng vô biên khó thể thí dụ”.
Lại Kinh Kim Cang nói: “Bố thí bảy báu đầy khắp tam thiên đại thiên thế giới, chẳng bằng thọ trì bốn câu kệ và vì người khác giảng nói thì phước của người ấy còn hơn sự bố thí bảy báu kia”.
Như có người thiện nam tín nữ nào, phát tâm khắc bản in bố thí truyền bá, khiến pháp giới chúng snah đốn ngộ tối thượng thừa, đều đến cõi Phật, đồng chứng bồ đề, thì công đức vô biên, khó nói hết.
Vạn pháp qui tâm lục Nói thẳng chẳng dấu diếm Hay mở mắt thanh tịnh Khéo chỉ tâm niết bàn. Ba đạo từ đây vào Trăm nhọc chớ tìm ngoài Có người in trăm bản Hơn thí một thuyền vàng.
HẾT
LỜI BẠT
Nhứt tâm là tổng tướng của muôn pháp, muôn pháp là biệt tướng của nhứt tâm. Tâm có hai loại chơn vọng chẳng đồng. Nương vào chơn tâm mau chứng bồ đề. Đuổi theo vọng tâm thì trôi nổi trong sanh tử. Chơn tâm vọng tâm nên biết là bản thể. Chơn tâm là cái biết mầu nhiệm: không biết mà biết. Vọng tâm là cái biết của thức: có biết mà biết. Không biết mà biết thì viên minh tịch chiếu. Có biết mà biết thì niệm niệm sanh diệt.
Đại sư khởi lòng từ, mượn văn vấn đáp để biện minh chơn tâm, chỉ trần nẻo tu chứng. Từ đầu chí cuối mỗi lời đều khế lý. Quyển Lục nầy truyền bá ở đời như ngọn đèn sáng suốt hay phá được đêm dài vạn kiếp, mà thẳng đến Bảo sở. Thực là pháp quí, hẳn là pháp quí. Tôi xem quyển Lục nầy không thôi, và lại đọc nó đề làm lời bạt.
Thể Như Cư Sĩ Lưu Phương kính bạt.
LỜI SAU SÁCH
Thiền sư Tổ Nguyên biện luận về Nho giáo và Đạo giáo, có nhiều phát minh và lý luận rất xác đáng. Như điều “cách vật”, lấy vật làm tình thức. Đây là cái học của ông Dương Minh.
Họ Vương nói: “Không thiện không ác là thể của tâm”. Dạy người không dính điều thiện, không mắc việc ác. Chỗ này gọi là tâm chơn như. Có thiện có ác là sự dấy động của ý. Thiện ác do ý động mà sanh. Vì do bất giác mà có tâm sanh diệt. Biết thiện ác là đạt đến lương tri. Lương tri cùng với thức tri chẳng đồng. Lương tri tức là Diệu giác, tức là bản giác, tức là diệu quan sát trí. Muốn đạt đến lương tri nầy, trước hết là phải chẳng bị vật dục che, là làm việc thiện, bỏ việc ác, tức là cách vật. Việc này Mạnh Tử bảo rằng “cơ quan của tai mắt”. Không nghĩ mà không bị che bở vật. Chữ vật giảng là tình thức, thì nhứt định cách đi cái vật dục nầy rồi sau mới có thể thành ý, chánh tâm vậy.
Vạn vật trong thiên hạ đều sai khác, làm sao xét cho cùng mỗi vật? Chỉ có vật dục của tâm người, tức là ác. Bỏ cái ác vật dục kia thì việc lành của bản tâm mới hiện. Không ác liền là thiện. Tên thiện ác cũng chẳng lập.
“Khắc kỷ phục lễ”, Kỷ tức là vật. Nếu đem mỗi vật ra mà xét, thì tâm đã loạn rồi, làm sao có thể thành ý? Há chẳng nghe nói sự rộng lớn của trời đất, dù là thánh nhơn cũng có chỗ chẳng biết, có chỗ chẳng thể làm. Cái trí của Nghiêu Thuấn còn chẳng thể hiểu khắp muôn vật thay. Huống là vật trong thiên hạ cũng có ra ngoài cái thường lý ấy. Chẳng phải tánh linh của tâm con người có thể học tất cả được? Phàm vật trong thiên hạ nhơn cái lý đã biết kia mà hiểu rốt cùng của nó.
Khán thoại đầu của Thiền tông, tức là đề khởi một chữ một câu từ chỗ có đạo lý, mà đến chỗ không đạo lý. Một niệm gậm mãi một chỗ, mắt nhìn mãi một nơi, dựng dậy xương sống suốt năm suốt tháng. Chợt một hôm toàn thân xuất mồ hôi, thoắt ngộ được bản tâm, thấy được bản tánh mình. Chỗ ấy gọi rằng dụng sức lâu mà một ngày rỗng rang thông suốt.
Phải biết, tham thiền chẳng qua là mượn câu thoại đầu để cột vọng tâm, một chỗ chớ chẳng phải trong câu thoại đầu có đạo lý gì? Phật nói: “Dừng tâm một chỗ, không việc gì chẳng xong”.Đạo giáo nói: “Được cái một, muôn sự xong”. Kinh Di Đà nói: “Một tâm không loạn”. Trang Tử nói: “Dùng chí chẳng lăng xăng mới ngưng được thần”. Khổng Tử nói: “Đạo ta dùng lý một mà quán thông tất cả”. Mạnh Tử nói: “Muôn vật đều đủ ở ta; đâu cần xét ở muôn vật”?
Cho đến sách của Đạo gia, chỉ có Đạo Đức kinh, Thanh Tịnh kinh là chơn. Ngoài ra các sách khác như Âm Phù, Huỳnh đình, Tham Đồng, Ngộ chơn. Tất cả đều từ trên xác thân mà mò mẫm. Sự thành tựu của nó chẳng qua là mười hai loại Tiên trong kinh Lăng Nghiêm nói mà thôi.
Địa vị của Tiên gia đâu không có cao thấp, tất cả đều do công hạnh có sâu cạn. Nếu xét về các bậc thượng thánh từ xưa đến nay, bậc cao chơn “Luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp đạo” cũng ra ngoài ba cõi, đến đất Như Lai, đều cùng Khổng thánh đồng vai. Chẳng như vậy thì Lão Tử cũng sẽ đoạ lạc, làm sao ba đạo đồng hành chẳng trái ư?
Chùa Phổ Độ, Thừa công (ông Thừa) (16) nhơn tham thiền ngộ đạo, mà còn thông cả sách Nho và sách Đạo. Thực là hay ở trên một từng cao tột, nên thấy được rõ ràng. Ngài đã trước tác quyển Duy Tâm Tập và Kệ Niệm Phật là gì (niệm Phật thị thuỳ?) hầu dẫn đạo cho quần mê, tận tình bày tỏ. Thật là ngọn đèn trong nhà tối. Tôi thì ít thấy ít biết, ấn chứng dưới toà, đáng được một gậy chăng?
-
Tháng Xuân Vương, năm thứ 34 đời cua Quang Tự
-
Đổng Hư Tử, tên quang Phất kính ghi (T.L 1908)