TÁC GIẢ & TÁC PHẨM
Thiền sư Vô Uấn (1309 - 1386), tự Thứ Trung hiệu Không Thất. Thầy họ Trần, người huyện Lâm Hải, tỉnh Chiết Giang, nối pháp Thiền sư Diệu Đạo, hiệu Trúc Nguyên.
Thầy trụ trì qua các ngôi chùa nổi tiếng như: Linh Nham, Thụy Nham. Người học tin tưởng hướng về, tông phong chấn hưng mạnh mẽ.
Sau đó Thầy lui về ở nơi Tùng Nham. Năm thứ 7 niên hiệu Hồng Vũ (1374), Thầy lấy cớ già bệnh từ chối lời mời sang nước Nhật, rồi đến ở chùa Thiên Giới. Tống Cảnh Liêm là vị quan ở viện Hàn lâm có hiệu là cư sĩ Vô Tướng, do mến mộ đạo đức của Thầy, nên thường đến thăm hỏi bàn Thiền.
Năm thứ 17 niên hiệu Hồng Vũ, đệ tử của Thầy là Cư Đảnh đón Thầy về Thúy Sơn để phụng dưỡng. 2 năm sau Thầy thị tịch.
Quyển Sơn Am Tạp Lục được soạn thành vào những năm cuối đời, khi Thầy cất am tranh ẩn cư trên núi Thái Bạch.
Nội dung ghi lại những cơ duyên để xướng của các bậc cao đức, chuyện nhân quả báo ứng, cùng nhiều hạnh nết lành dữ đáng làm gương cho đời sau, là kim chỉ nam cho người tu đạo, cho nên được khen ngợi là một trong 7 quyển sách hay của Thiền môn.
1. NGÀI ĐỊNH THỦY BẢO DIỆP
Hòa thượng Bảo Diệp ở viện Định Thủy, người Tây Minh, đến tham học với Thiền sư Trí Ngu hiệu Hư Đường ở Kính Sơn. Thông thường, nếu như chưa thể thông suốt thoại đầu trong Tông môn, thầy nhất định phải thưa hỏi các bậc lão thành, bao giờ hiểu mới thôi.
Một hôm, thầy đi đến chỗ Hư Đường, hỏi: Câu sau cùng của Đức Sơn nếu cho là có, Đức Sơn đâu thể chẳng hiểu? Nếu bảo là không, sao Nham Đầu lại nói Đức Sơn chưa hiểu? Mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy
Hư Đường nói: Ta chẳng hiểu, ông nên đi hỏi Thủ tọa Vân
Thầy đi hỏi Thủ tọa Vân. Đúng lúc Thủ tọa dạo núi về, xách nước rửa chân. Thầy liền đưa nước, cúi mình lấy tay kì cọ, lại ngước đầu hỏi: Câu sau cùng của Đức Sơn, con chưa biết là có hay không, mong Thủ tọa chỉ dạy
Thủ tọa Vân dùng hai tay vốc nước rửa chân tạt vào mình thầy, nói: Có câu sau cùng nào đâu!
Thầy không hiểu ý chỉ. Sáng hôm sau thầy đến gặp Hư Đường.
Hư Đường hỏi: Tôi bảo ông hỏi Thủ tọa Vân câu sau cùng, ông ta nói thế nào?
Thầy nói: Con theo lời dạy của Hòa thượng đến hỏi Thủ tọa, bị ông ta lấy nước rửa chân tạt vào mình
Hư Đường nói: Ông ta không nói gì khác sao?
Thầy đáp: Ông nói: “Có câu sau cùng nào đâu”
Hư Đường nói: Thế thì ta nói cho ông biết là ông ta hiểu được
Thầy do đó thông suốt. Thủ tọa Vân là Hòa thượng Nhàn Cực, đệ tử đứng đầu của Ngài Hư Đường, có đạo hạnh cao, trụ ở Hổ Khâu rồi mất.
🔖 Thoại đầu: Thoại là một lời nói, khi chưa khởi niệm muốn nói gọi là thoại đầu, chính là chỗ vô thì vô minh. Tham thoại đầu, còn gọi là Khán thoại đầu, tức là nhìn ngay chỗ vô thỉ vô minh, không biết đó là cái gì, vừa nhìn vừa hỏi, càng hỏi càng cảm thấy không biết, ấy gọi là phát nghi tình. (Từ Điển Thiền Tông)
2. NGÀI NHÂN ĐẠI PHƯƠNG
Nhân Đại Phương trụ trì chùa Định Huệ ở Bình Giang, là người ở Thiên Thai, nối pháp ngài Cổ Lâm. Thầy không quan tâm đến việc nhỏ nhặt, cuộc sống phóng khoáng tự tại, thường qua lại thân thiết với Quận thú Chu Hầu Nghĩa. Đại Phương giao lại tất cả công việc trong viện, đến ở phòng của Lão Túc Hoa tại Linh Nham.
Ngày 8 tháng 9 năm Mậu Tuất, niên hiệu Chí Chánh, Chu Hầu Nghĩa có việc vào núi thăm hỏi. Đại Phương nói với Hầu Nghĩa: Tôi vào ngày 14 trong tháng này sẽ hỏa thiêu tại núi này. Mong ông chứng minh cho tôi.
Hầu Nghĩa vui đùa chấp nhận, rồi từ biệt ra đi. Đến ngày 13, thầy viết kệ gửi Hầu Nghĩa nói:
Vách núi hôm qua nhặt củi khô, Sáng nay chất huyễn hóa thành tro, Ân cần nhắn gởi Hiền hầu bạn, Mây tan trời thẳm một vầng trăng.
Tạc nhật nham tiền thập đắc tân, Kim triệu huyễn chất hóa vị trần, Ân cần ký ngữ Hiền hầu đạo, Bích lạc vân thu nguyệt nhất ngân.
Hầu Nghĩa nhận được bài kệ, cũng chưa tin chắc. Đêm ấy, thầy xin Lão Túc Hoa dùng củi khô làm một sàng cao và mượn cái khám để ngồi Lão Túc Hoa nói: Củi thì sẽ cho, còn khám thì không có.
Thầy mới chỉ cái giường Lão Túc Hoa ngồi nói: Cái này cũng đủ rồi.
Lão Túc Hoa đồng ý như lời.
Đến sáng ngày 14 thầy lên điện lễ Phật xong, nói lời từ biệt với tăng chúng, lại nói kệ:
Thân trước vốn tăng ở Thạch Kiều, Cố đến nhân gian thương ghét nhiều, Thương ghét hết rồi toàn thể hiện, Rắn sắt nhai băng trong lửa thiêu.
Tiền thân bổn thị thạch kiều tăng Cố hướng nhân gian cung ái tắng, Tắng ái tận thời toàn thể hiện, Thiết xà hỏa lý tước hàn băng.
Thầy liền cầm củi khô đi lên sàn gỗ, tự châm lửa đốt, củi bén lửa cháy bùng hừng hực. Ở trong lửa, thầy nguyện hương rằng:
Mầm linh chẳng phải giống thường đâu, Cội gốc vốn từ kiếp ngoại lâu, Chẳng phải ở yên đã nói rõ, Sao dám đem trồng trong lửa sâu.
Tiền thân bổn thị thạch kiều tăng Cố hướng nhân gian cung ái tắng, Tắng ái tận thời toàn thể hiện, Thiết xà hỏa lý tước hàn băng.
Khoảng niệm một xâu chuỗi, thầy nói với Tôn Túc Hoa: Ngài nên dặn dò lại. Chỗ lửa đốt cháy được rất nhiều xá lợi. Chu Hầu Nghĩa nghe được tin này, giật mình than thở mãi. Thế rồi ông xây tháp thờ xá lợi thầy ở Linh Nham, lại làm thơ để tỏ lòng thương tiếc.
3. THẦY TRÒ NGÀI VIÊN NGỘ, ĐẠI HUỆ VÀ PHẬT TRÍ
⚠️ Trong Tùng lâm, những lời rao truyền không đáng tin tưởng. Đời sau cho rằng Đại Huệ và Phật Trí đồng tham học ngài Viên Ngộ, nhưng Viên Ngộ chỉ thương Phật Trí, vì thế Đại Huệ thường không bằng lòng.
Về sau Phật Trí trụ chùa A Dục Vương. Đại Huệ nối tiếp trụ trì pháp tịch của Viên Ngộ, lấy cớ phong thủy không tốt mà khai quật ngôi tháp của Viên Ngộ. Khi tháp xới lên, thấy thân thể của Viên Ngộ không hư hoại, Đại Huệ lấy cuốc to đánh vỡ não, rồi tưới dầu đốt rụi. Nếu đúng như vậy, có thể nói quá thê thảm. Người bình thường còn không nỡ làm, mà Đại Huệ nhẫn tâm làm ư.
Tôi đã từng đọc bài Minh ở tháp của ngài Viên Ngộ, khi Ngài mất, đem hỏa táng chôn cất xá lợi, không có chuyện nhập tháp toàn thân.
⚠️ Lại chê cười thấy Phật Trí trụ trì chùa Dục Vương, sai thợ đập phá xây dựng không ngày rảnh. Đến khi chùa Thiên Đồng không có người coi sóc, Đô Đường Tỉnh vâng lệnh vua dời thầy đến bổ nhiệm trụ trì. Thầy lấy cớ chùa Dục Vương xây dựng chưa xong, dâng thơ lên Tể Tướng xin được miễn theo lệnh. Trong thơ có câu: “Thiên Đồng là Dục Vương, Dục Vương là Thiên Đồng”. Do vì thầy trụ trì thanh quy nghiêm ngặt, tăng sĩ có sai phạm đều không dung thứ, cho nên ai cũng sợ.
Khi thấy thầy từ chối lệnh đến trụ trì chùa Thiên Đông, một số người ganh ghét hợp lại chê bai, cho là thầy “đem tiền mười vạn mua chùa Thiên Đồng”. Đến hiện nay, những bọn không biết gì truyền nhau cho là sự thật.
Vào niên hiệu Chí Nguyên, vua Thuận Đế nhà Nguyên, tôi có hỏi Nhạ Cảnh Văn ở chùa Phổ Phước Giáo. Cảnh Văn đưa xem bản thư thấy dâng cho quan Tể Tướng, nét mực vẫn rõ ràng mới chứng tỏ lời chê bai trước là sai lầm. Lại đọc bài Minh ở ba ngôi tháp và hành trạng trong Văn Tập của ngài Vô Văn, thuật chuyện thầy từ chối đến chùa Thiên Đồng đều cùng ý trong thư.
Nói về đạo đức của hai thầy, giống như mặt trời, mặt trăng trên cao, nơi đâu cũng được chiếu soi, mà vẫn có những lời chê bai không căn cứ. Tuy không thể làm ô uế hai thầy, nhưng cũng không thể không nói rõ để biết.
4. NGÀI LINH ẨN THIÊN LẠI
⚠️ Hòa thượng Thiên Lại ở chùa Linh Ẩn, người Xế Hữu, nối pháp ngài Ngu Cực. Thầy thích đọc sách làm văn, xem thường tất cả trên đời, có trước tác quyển Phù Tông Hiển Chánh Luận, phân tích tà chánh, xét định phải trái, rất là đáng xem.
Tuy nhiên, trong bản luận lại cho các tông sư giả chùy, dựng phát là trò đùa, rồi dẫn việc “Vương Diễn nhà Tấn cầm cán ngọc trần giống như cánh tay” để làm chứng.
Nói về các bậc tông sư giơ chùy dựng phất là nêu lên cơ hướng thượng, há lại là việc nhỏ sao? Mà Thiên Lại cho là trò đùa, không những làm mờ đi con mắt chánh của chính mình, mà còn gây nghi ngờ lầm lẫn cho người sau.
5
Nhà Nguyên diệt nhà Tống, cử Dương Liên Chơn Gia làm Thích Giáo Đô Tổng thống ở Giang Hoài, ông vâng lệnh đến Sơn Âm, đất Việt, khai quật những lăng tẩm của các vua Tống khi đến phương nam dựng kinh đô, nhưng chỉ cốt lăng nhục thi thể của vua Lý Tông mà thôi. Điều này nhất định là do oán thù lúc trước. Trụ trì chùa Diễn Phước là Thích Vân Mộng cũng đi cùng Chân Gia. Ý của Vân Mộng muốn a dua theo Chân Gia, nên lấy chân trái đá vào hông thi thể.
Không lâu sau, ở Dương Châu có người bị bệnh chết thình lình, đến cõi vua Diêm La, nghe lính âm phủ báo: “Thiên tử ở dương gian đến”.
Diêm vương xuống điện nghênh tiếp. Người ấy thấy mui xe vàng, cờ tiết mao cắm bên trái, ngựa xe rầm rộ, không khác gì nghi thức đưa đón bậc vua chúa ở nhân gian. Họ mới ngồi ổn định xong, lát sau có một lính quỷ xiềng trói một vị tăng, dẫn đến trước điện.
Vị vua ở dương gian trách rằng: “Trẫm ở ngôi 40 năm, lo nước trị dân, không có lỗi lầm to lớn. Đối với giáo pháp của thầy, chưa bao giờ ngăn cấm không cho truyền bá, cũng không có thù oán gì với thầy, sao thầy lại hùa theo Chân Gia, đến làm nhục Trẫm”.
Nói xong, sai 2 lực sĩ dùng dùi sắt dùi ngón chân cái bên trái, giơ lên cao rồi đánh. Tiếng la đau đớn của thầy kia chua xót thê thảm nghe thật đáng sợ. Lát sau, tất cả đều đi hết.
Người chết kia thấy lạ mới hỏi: Vị thiên tử ở dương gian là ai? Có người đáp là Hoàng đế Tống Lý Tông. Còn vị tăng bị đánh là ai? Được trả lời là Thích Vân Mộng trụ trì chùa Diễn Phước ở Hàng Châu. Người kia tỉnh lại, nhân đó đi đến chùa Diễn Phước, hỏi việc ấy để xem có đúng điều mình thấy hay không. Đến nơi biết được Vân Mộng bị thương ở ngón cái chân trái không thể trị, vì thế đã chết rồi.
6
Gần đây trong Tông môn của ta có nhiều bậc trác tuyệt, gặp lúc thi triển tài năng, không dẫm theo vết cũ của người xưa, có thể vận dụng trí tuệ của mình để mở mang lòng người, làm cho giáo pháp tăng cao giá trị. Nhưng sao hiện nay ít thấy những vị như thế!
Pháp sư Nghi ở Phụng Sơn, trụ trì chùa Hạ Thiên Trúc ở Hàng Châu, vào đầu niên hiệu Diên Hựu, thời Tiền Nguyên, thầy được đến gặp vua và được ban cho danh hiệu Tam Tạng Hồng Lô Khanh, nhưng thầy không chịu nhận bổng lộc ấy. Trong Giáo môn có chút việc không thích hợp, thầy nhất định chỉnh sửa.
Phò mã nước Cao Ly là Thẩm Vương được sắc chỉ đến lễ Bồ tát Quán Âm ở núi Phổ Đà. Đi qua Hàng Châu, Phò mã xuất tiền trong túi, đến chùa Minh Khánh để thiết trai, cúng dường các vị trụ trì trong núi. Từ quan tỉnh trở xuống đến các quan Ngọ môn, đều đích thân đôn đốc việc này. Đến khi sắp chỗ ngồi, đặt Thẩm Vương ngồi trên pháp tòa giữa giảng đường. Các quan theo thứ bậc ngồi dưới pháp tòa, các vị trụ trì ngồi hai dãy nhà hai bên.
Ổn định chỗ ngồi xong thầy mới đến, thấy thế thầy liền đi thẳng lên tòa hỏi Phò mã: Trai hội ngày hôm nay là thế nào?
Phò mã đáp: Cúng đường các vị trụ trì
Thầy nói: Đại vương đã nói cúng dường các vị trụ trì, ngồi ở chỗ tôn quý, các vị trụ trì lại ngồi ở hai mà chủ nhân hiện không có chỗ. Còn đại vương. dãy nhà bên, có người còn ngồi dưới đất, chẳng khác gì đi xin các nơi, e rằng không hợp là pháp.
Phò mã nghe nói, hốt hoảng xin lỗi, liền xuống pháp tòa, đến trước vái tạ các vị trụ trì, phân ngôi chủ khách, các vị quan xuống ngồi chỗ hai dãy nhà. Buổi cúng dường xong, Phò mã nắm tay thầy nói: Nếu không có thầy, e rằng không thành lễ.
Ôi! Nếu cho là gặp lúc thi triển tài năng, có thể mở mang lòng người. Thầy Phụng Sơn chính là người như thế.
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
LỜI CUỐI SÁCH
Quyển Sơn Am Tạp Lục ghi lại những việc do ngài Vô Uấn đã nghe thấy lúc bình sanh khi Ngài ở am tranh trên núi Thụy Nham. Những việc ghi trong đó hoặc lành hoặc dữ, đều thẳng thắn không che giấu, đúng là quyển sách lịch sử hay của hàng xuất gia. Về sự việc có liên quan đến Tông giáo thì không thể không chép, nhưng chép mà phù hợp với dư luận chung của thiên hạ thì càng đáng mừng. Quyển sách này lưu hành, sẽ cùng các tác phẩm Lâm Gian Lục, Thảo Am Lục truyền lại đến vô cùng.
Ngày trăng tròn tháng hai, Mùa Xuân năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Vũ Trụ trì Chùa Thiên Hy, Thủ Nhân kính ghi